Một số thắc mắc về Vắc XinNhững câu hỏi thường gặp nhất của cha mẹ về vắc-xinUNICEF Viet Nam\Truong Viet Hung
Vắc-xin là gì?Vắc-xin là chế phẩm thường được dùng cho trẻ nhỏ để bảo vệ khỏi những bệnh nguy hiểm, thường có khả năng gây tử vong. Thông qua việc kích thích sự tự vệ tự nhiên của cơ thể, vắc-xin tăng sức đề kháng của cơ thể để chống lại bệnh nhanh hơn và hiệu quả hơn Show Cơ chế hoạt động của Vắc-xin như thế nào?Vắc-xin giúp hệ miễn dịch của bạn tấn công các tác nhân gây bệnh hiệu quả hơn bằng cách chuẩn bị sẵn sàng cho hệ miễn dịch ứng phó với một số bệnh cụ thể. Từ đó, nếu vi-rút hoặc vi khuẩn tấn công cơ thể bạn sau này, hệ miễn dịch của bạn sẽ nhận diện được và biết cách chống lại. Vắc-xin có an toàn không?Vắc-xin rất an toàn. Nếu không tiêm hoặc dùng vắc-xin, con của bạn còn có thể bị tổn hại về sức khỏe hơn nhiều do một bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin. Tất cả vắc-xin đều được kiểm tra độ an toàn một cách nghiêm ngặt, bao gồm cả các thử nghiệm lâm sàng, trước khi được đưa ra sử dụng rộng rãi. Các quốc gia sẽ chỉ đăng ký và phân phối vắc-xin đáp ứng đủ các tiêu chuẩn chặt chẽ về chất lượng và độ an toàn. Tại sao tôi cần đưa con đi tiêm chủng?Vắc-xin có thể cứu mạng sống của con người. Chỉ riêng vắc-xin sởi ước tính đã giúp ngăn chặn tử vọng cho hơn 21 triệu người từ năm 2000 đến 2017. Vắc-xin sẽ giúp bảo vệ con bạn khỏi các bệnh nguy hiểm hoặc nguy cơ bị tử vong, đặc biệt là đối với những người có hệ miễn dịch đang phát triển như trẻ sơ sinh. Bạn cần phải tiêm chủng cho con mình. Nếu không tiêm chủng thì những bệnh lây nhiễm cao như sởi, bạch hầu và bại liệt, những bệnh đã từng được xóa sổ tại nhiều quốc gia trên thế giới, sẽ có nguy cơ bùng phát trở lại. Liệu cơ thể của con tôi có tiếp nhận được tất cả các loại vắc-xin?Có. Nhiều cha mẹ lo lắng rằng nhiều vắc-xin có thể làm quá tải hệ miễn dịch của trẻ. Nhưng trẻ em tiếp xúc với hàng trăm loại vi trùng hàng ngày. Thực tế là, bị cảm lạnh hay đau họng sẽ tạo áp lực lớn hơn đến hệ miễn dịch của con bạn hơn là tiêm chủng. UNICEF Nơi tôi ở không có những bệnh này. Tại sao tôi vẫn cần phải đưa con đi tiêm chủng?Bạn vẫn cần phải tiêm chủng cho con. Mặc dù những bệnh này có thể đã được xóa sổ ở quốc gia hay khu vực bạn đang sinh sống, nhưng chúng ta đang sống ở một thế giới ngày càng kết nối nhiều hơn, điều này nghĩa là dịch bệnh có thể lan từ nơi này sang nơi khác. Miễn dịch cộng đồng là gì?Nếu trong cộng đồng bạn sinh sống có đủ số người được tiêm chủng một bệnh nào đó, thì cộng đồng đó có thể đạt tới mức độ miễn dịch cộng đồng. Khi cộng đồng được miễn dịch, dịch bệnh không thể dễ dàng lây lan từ người này sang người khác vì phần lớn mọi người đã được miễn dịch. Miễn dịch cộng đồng tạo ra một tầng bảo vệ chống lại bệnh cho cả những người chưa được tiêm chủng, như trẻ sơ sinh. Miễn dịch cộng đồng có thể phòng ngừa, ngăn chặn bùng phát và lây lan dịch bệnh. Bệnh ngày càng hiếm xảy ra và thậm chí có thể hoàn toàn biết mất không còn tồn tại trong cộng đồng. Vắc-xin có thể khiến con của tôi bị ốm không?Vắc-xin cực kỳ an toàn, những tác dụng phụ nghiêm trọng của vắc-xin rất hiếm. Hầu hết các triệu chứng ốm mệt hay khó chịu sau khi tiêm vắc-xin rất nhẹ và tạm thời, ví dụ như hơi đau nhức ở nốt tiêm hoặc sốt nhẹ. Những triệu chứng này có thể được kiểm soát bằng việc dùng thuốc giảm đau do bác sỹ kê, hoặc đắp khăn lạnh lên nốt tiêm. Nếu cha mẹ cảm thấy lo lắng, cha mẹ cần phải hỏi bác sỹ hoặc nhân viên y tế. Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng không có bằng chứng nào cho thấy sự liên quan giữa vắc-xin và bệnh tự kỷ. Vắc-xin có thể phòng ngừa những bệnh gì?Vắc-xin bảo vệ con bạn khỏi những bệnh nguy hiểm như bại liệt – căn bệnh có thể gây liệt; bệnh sởi – căn bệnh có thể gây viêm não và mù; và bệnh uốn ván – có thể gây co cứng cơ kèm theo đau và khó nhai, khó bú (ở trẻ sơ sinh) và khó thở. Hãy tìm hiểu thêm về danh sách các vắc-xin phổ biến và những bệnh mà vắc-xin có thể phòng ngừa tại đây Tôi có thể trì hoãn, không đưa con đi tiêm chủng theo lịch tiêm chủng không?Một trong những cách hiệu quả nhất để bảo vệ con bạn là tuân thủ theo lịch tiêm chủng ở quốc gia mà bạn sinh sống. Nếu bạn trì hoãn và chậm không đưa con đi tiêm vắc-xin, bạn sẽ làm tăng thêm nguy cơ mắc bệnh cho con mình. Tôi có thể để con tôi bị thủy đậu mà không cần đi tiêm vắc-xin?Mặc dù thủy đậu là một bệnh nhẹ, nhiều bậc cha mẹ có thể vẫn còn nhớ bệnh này từ hồi họ còn nhỏ (vắc-xin thủy đậu lần đầu tiên được giới thiệu năm 1995), nhưng một số trẻ em vẫn có thể gặp phải biến chứng nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong hoặc khuyết tật vĩnh viễn. Vắc-xin giúp xóa bỏ nguy cơ biến chứng từ bệnh thủy đậu, và phòng tránh trẻ mắc thủy đậu lây sang anh chị em ruột, bạn bè hoặc bạn cùng lớp. Lịch tiêm chủng hợp lý được khuyến cáo cho trẻ em như thế nào?Lịch tiêm chủng của mỗi quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào loại bệnh nào là phổ biến nhất. Bạn có thể tìm hiểu tổng quan về các vắc-xin được khuyến cáo và ngày tiêm chủng từ trung tâm y tế ở địa phương, bác sỹ hoặc Bộ Y tế ở quốc gia bạn sinh sống. UNICEF Viet Nam Người tìm ra vaccine đầu tiênEdward Jenner(1749-1823) Bằng chứng của việc thực hành tiêm chủng có từ nhiều trăm năm trước là các nhà sư Ấn Độ đã uống nọc rắn tạo miễn dịch cơ thể không bị chết sau khi rắn cắn và tại Trung Quốc đã bôi dịch mụn trên da của người bị bệnh đậu mùa để gây miễn dịch chống lại bệnh đậu. Người tìm ra nguyên lý sử dụng vaccine đầu tiên là Bác sỹ người Anh Edward Jenner. Vào năm 1796, sau khi ông tiêm cho bé trai 13 tuổi vảy virus đậu bò để phòng bệnh đậu mùa. Vào năm 1798, vaccine chủng ngừa bệnh đậu mùa đầu tiên đã được phát triển. Qua thế kỷ XVIII và XIX với việc triển khai thực hiện công tác tiêm chủng phòng đậu mùa đồng bộ và nhiều quốc gia tham dự nên năm 1979 bệnh đậu mùa đã được thanh toán trên toàn cầu. Kế thừa nền tảng khoa học mà Edward Jenner để lại từ cuối thế kỷ XVIII và XIX, Louis Pasteur, người Pháp đã kế thừa và phát minh ra nhiều loại vaccinenhư vaccinephòng bệnh tả và vaccine phòng bệnh Than vào năm 1897-1904, tiếp theo vaccine phòng bệnh dịch hạch và vaccine phòng bệnh Lao Bacillis-Calmette-Guerin (BCG) được phát minh những năm 1950. Vaccinerất quan trọng khác là vaccine phòng bệnh Ho gà toàn tế bào được giới thiệu vào năm 1948. Giai đoạn tiếp theo 1950-1985 là giai đoạn nghiên cứu và phát triển các vaccine virus như vaccine phòng bệnh Dại và bệnh Bại liệt uống (sabin). Tiếp theo là sự ra đời của các vaccine virus khác như Sởi, Quai bị và Rubella. Mục lục
Vắc-xin và các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xinVắc-xin giúp bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên khỏi các bệnh truyền nhiễm cao có nguy cơ gây tử vong. Dưới đây là danh sách các loại vắc-xin được hầu hết các chính phủ và bác sĩ khuyên dùng để bảo vệ trẻ em và người dân khỏi dịch bệnh. 1. Vắc-xin là gì?Vắc-xin là chế phẩm thường được dùng cho trẻ nhỏ để bảo vệ khỏi những bệnh nguy hiểm, thường có khả năng gây tử vong. Thông qua việc kích thích sự tự vệ tự nhiên của cơ thể, vắc-xin tăng sức đề kháng của cơ thể để chống lại bệnh nhanh hơn và hiệu quả hơn 2. Tình hình chung Vắc-xin bảo vệ trẻ em khỏi bệnh tật và tử vong, cứu sống gần 3 triệu người mỗi năm – mỗi phút trôi qua lại có hơn năm người được vắc-xin cứu sống. Tuy nhiên, những trẻ em nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất, những người cần tiêm chủng nhất lại ít tiếp cận được với tiêm chủng nhất. Tỷ lệ tiêm chủng thấp làm ảnh hưởng đến các bước tiến trên tất cả các phương diện về sức khỏe của bà mẹ và trẻ em. Những sốliệu đáng chú ý về tiêm chủng -Ước tính khoảng 21,1 triệu trẻ em được cứu sống trong chiến dịch tiêm chủng phòng bệnh Sởi trong giai đoạn 2010-2017 - Uốn ván ở bà mẹ và trẻ sơ sinh, một căn bệnh vô cùng nguy hiểm gây tử vong cho trẻ em, đã được thanh toán ở tất cả các nước, ngoại trừ 13 nước, tính đến tháng 3 năm 2019 - Khoảng 85% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm vắc-xin đầy đủ. giúp bảo vệ khỏi các bệnh bạch hầu, uốn ván và ho gà - 19,9 triệu trẻ sơ sinh đã không được hưởng lợi từ việc tiêm chủng đầy đủ năm 2019 - 40% trẻ không được tiêm chủng sống ở các nơi tạm bợ hoặc cơ sở từ thiện, bao gồm ở những nước bị ảnh hưởng bởi chiến tranh 3. Cơ chế hoạt động của vắc-xin Vắc-xin giúp hệ miễn dịch của bạn tấn công các tác nhân gây bệnh hiệu quả hơn bằng cách chuẩn bị sẵn sàng cho hệ miễn dịch ứng phó với một số bệnh cụ thể. Từ đó, nếu vi-rút hoặc vi khuẩn tấn công cơ thể bạn sau này, hệ miễn dịch của bạn sẽ nhận diện được và biết cách chống lại. Nhiều cha mẹ lo lắng rằng nhiều vắc-xin có thể làm quá tải hệ miễn dịch của trẻ. Nhưng trẻ em tiếp xúc với hàng trăm loại vi trùng hàng ngày. Thực tế là, bị cảm lạnh hay đau họng sẽ tạo áp lực lớn hơn đến hệ miễn dịch của con bạn hơn là tiêm chủng.
4. Miễn dịch cộng đồngNếu trong cộng đồng bạn sinh sống có đủ số người được tiêm chủng một bệnh nào đó, thì cộng đồng đó có thể đạt tới mức độ miễn dịch cộng đồng. Khi cộng đồng được miễn dịch, dịch bệnh không thể dễ dàng lây lan từ người này sang người khác vì phần lớn mọi người đã được miễn dịch. Miễn dịch cộng đồng tạo ra một tầng bảo vệ chống lại bệnh cho cả những người chưa được tiêm chủng, như trẻ sơ sinh. Miễn dịch cộng đồng có thể phòng ngừa, ngăn chặn bùng phát và lây lan dịch bệnh. Bệnh ngày càng hiếm xảy ra và thậm chí có thể hoàn toàn biết mất không còn tồn tại trong cộng đồng. 5.Lịch tiêm chủng hợp lý được khuyến cáo cho trẻ em Lịch tiêm chủng của mỗi quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào loại bệnh nào là phổ biến nhất. Bạn có thể tìm hiểu tổng quan về các vắc-xin được khuyến cáo và ngày tiêm chủng từ trung tâm y tế ở địa phương, bác sỹ hoặc Bộ Y tế ở quốc gia bạn sinh sống.
Nguồn tin : UNICEF Tìm kiếm theo từ khóa :vắc-xin, tiêm chủng, virus, miễn dịch
1.Vaccine virus toàn phầnNhiều loại vaccine thông thường sử dụngvirustoàn phần để kích hoạt phản ứng miễn dịch. Có hai cách tiếp cận chính: -Vaccine ‘sống giảm độc lực’sử dụng một dạng virus đã được làm yếu đi nhưng vẫn có thể phát triển và nhân lên, mà không gây bệnh. Những vaccine này đơn giản là phiên bản của mầm bệnh tự nhiên được làm suy yếu, nên phản ứng củahệ thống miễn dịchcũng giống như với bất kỳ yếu tố xâm lấn tế bào nào khác, huy động một loạt các biện pháp phòng thủ chống lại nó, bao gồm tế bào ‘T diệt’ (xác định và tiêu diệt tế bào bị nhiễm), tế bào ‘T trợ giúp’ (hỗ trợ sản xuất kháng thể) và các tế bào B sản xuất kháng thể (nhắm vào các mầm bệnh ẩn náu ở những nơi khác trong cơ thể, ví dụ như ở máu). Phản ứng miễn dịch này tiếp tục cho đến khi virus được loại bỏ khỏi cơ thể, có nghĩa là có nhiều thời gian để các ‘tế bào nhớ’ chống lại virus phát triển. Do đó, vaccine giảm độc lực sống có thể kích hoạt phản ứng miễn dịch cũng mạnh mẽ như khi tiếp xúc với virus hoang dã, nhưng không bị ốm. Tuy nhiên,chúng có thể không phù hợp với những người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương (ví dụ như những người bịnhiễm HIV)... Nhiều loại vaccine thông thường sử dụng virus toàn phần để kích hoạt phản ứng miễn dịch. -Vaccine ‘bất hoạt’sử dụng virus có vật chất di truyền đã bị phá hủy nên chúng không thể nhiễm vào tế bào và tái tạo, nhưng vẫn có thể kích hoạt phản ứng miễn dịch. Vaccine virus bất hoạt cũng chứa virus gây bệnh hoặc các bộ phận của virus nhưng vật chất di truyền của chúng đã bị phá hủy. Vì lý do này, chúng được coi là an toàn và ổn định hơn so với vaccine sống giảm độc lực, và chúng có thể được tiêm cho những người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương. Mặc dù chất liệu di truyền của chúng đã bị phá hủy, virus bất hoạt vẫn chứa nhiều protein mà hệ thống miễn dịch có thể phản ứng lại. Nhưng bởi vì chúng không thể lây nhiễm vào các tế bào, vaccine bất hoạt chỉ kích thích phản ứng qua trung gian kháng thể, và phản ứng này có thể yếu hơn và thời gian tồn tại ngắn hơn. Để khắc phục vấn đề này, vaccine bất hoạt thường được tiêm cùng với chất bổ trợ (chất kích thích hệ miễn dịch) và có thể phải dùng liều nhắc lại. Cả hai đều được thử nghiệm và dùng cho chiến lượctiêm chủng, là cơ sở của nhiều loại vaccine hiện có, bao gồm vaccine phòng bệnh sốt vàng và sởi (vaccine sống giảm độc lực), cúm mùa và viêm gan A (vaccine bất hoạt). Vaccine giảm độc lực vi khuẩn cũng đang được sử dụng, chẳng hạn như vaccine BCG cho bệnh lao. 2. Vaccine tiểu đơn vịThay vì tiêm toàn bộ mầm bệnh để kích hoạt phản ứng miễn dịch, vaccine tiểu đơn vị (đôi khi gọi là vaccine dạng tế bào) chứa các mảnh tinh khiết của nó, đã được lựa chọn đặc biệt để có khả năng kích thích tế bào miễn dịch. Vì những mảnh vỡ này không có khả năng gây bệnh nên vaccine tiểu đơn vị được coi là rất an toàn. Có một số loại: (1) Vaccine ‘tiểu đơn vị protein’ chứa các protein đặc trưng được tách ra từ các virus hoặc vi khuẩn mầm bệnh; (2) Vaccine ‘polysaccharide’ chứa các chuỗi phân tử đường (polysaccharide) được tìm thấy trong thành tế bào của một số vi khuẩn; (3) Vaccine ‘tiểu đơn vị liên hợp’ liên kết chuỗi polysaccharide với ‘protein mang’ để làm tăng đáp ứng miễn dịch. Hiện chỉ có vaccine tiểu đơn vị protein đang được phát triển để chống lại virus gây ra COVID-19. Các vaccine tiểu đơn vị khác đã được sử dụng rộng rãi. Ví dụ gồm có vaccine viêm gan B và vaccine ho gà acellular (tiểu đơn vị protein), vaccine Polysaccharide phế cầu (polysaccharide) và vaccine MenACWY, có chứa polysaccharides từ bề mặt của bốn loại vi khuẩn gây bệnh não mô cầu kết hợp với độc tố bạch hầu hoặc uốn ván (tiểu đơn vị liên hợp). 3. Vaccine axit nucleicVaccine acid nucleic sử dụng chất liệu di truyền từ virus hoặc vi khuẩn gây bệnh (mầm bệnh) để kích thích đáp ứng miễn dịch chống lại nó. Phụ thuộc vào vaccine mà chất liệu di truyền có thể là DNA hoặc RNA; cả hai đều cung cấp sự hướng dẫn để tạo ra protein cụ thể từ mầm bệnh, mà hệ thống miễn dịch sẽ nhận ra protein đó là ngoại lại (kháng nguyên). Khi chất liệu di truyền được đưa vào trong tế bào vật chủ, nó sẽ đươc đọc bởi chính bộ máy sản xuất protein của tế bào và được sử dụng để tạo ra kháng nguyên, rồi kháng nguyên này sẽ kích hoạt đáp ứng miễn dịch của cơ thể. Đây là một kỹ thuật tương đối mới, vì vậy mặc dù vaccine DNA và RNA đang được phát triển để chống lại các bệnh khác nhau, bao gồm HIV, Zika và COVID-19… Do kháng nguyên được tạo ra bên trong tế bào của chúng ta và với số lượng lớn, nên phản ứng miễn dịch sẽ mạnh mẽ. Ngoài ra, vaccine RNA cần phải được giữ ở nhiệt độ cực lạnh (-70C) hoặc thấp hơn, có thể là thách thức đối với các quốc gia không có thiết bị bảo quản lạnh chuyên dụng, đặc biệt là các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. 4. Vaccine virus trung gianVaccine ‘virus trung gian’ cũng hoạt động bằng cách cung cấp cho tế bào các hướng dẫn di truyền để sản xuất kháng nguyên. Nhưng chúng khác với vaccin axit nucleic ở chỗ chúng sử dụng một loại virus vô hại, khác với virus mà vaccine đang nhắm tới, để đưa những hướng dẫn này vào tế bào. Một loại virus thường được sử dụng làm trung gian là adenovirus, virus gây ra cảm lạnh thông thường. Giống như vaccine axit nucleic, bộ máy tế bào của chúng ta bị chiếm quyền và bắt buộc sản xuất kháng nguyên từ những hướng dẫn đó, nhằm kích hoạt phản ứng miễn dịch. Vaccine virus trung gian là bắt chước giống quá trình nhiễm virus tự nhiên vì vậy kích hoạt phản ứng miễn dịch mạnh mẽ. Tuy nhiên, vì có khả năng nhiều người đã tiếp xúc với virus được sử dụng làm trung gian nên một số người có thể đã miễn dịch với nó, làm cho vaccine kém hiệu quả hơn./. Nguồn: Suckhoedoisong.vn |