Yêu cầu của công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam -- Trung Quốc là gì

Việt Nam đã giải quyết được dứt điểm 2 trong 3 vấn đề lớn về biên giới lãnh thổ do lịch sử để lại trong quan hệ Việt- Trung.

Theo kế hoạch dự kiến, hôm nay 23/8, tại thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh cùng Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị sẽ đồng chủ trì “Hoạt động kỷ niệm 20 năm ký Hiệp ước biên giới và 10 năm triển khai 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc”.


Đây là sự kiện quan trọng để hai nước tổng kết, đánh giá các thành tựu, kinh nghiệm trong công tác phối hợp giữa hai bên sau 10 năm triển khai 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền và 20 năm ký Hiệp ước biên giới Việt Nam - Trung Quốc cũng như việc hợp tác, phát triển tại khu vực biên giới.

Yêu cầu của công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam -- Trung Quốc là gì
Khánh thành cột mốc 1116 tại Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Lạng Sơn
 (Ảnh:biengioilanhtho.gov.vn)

Tiến trình đàm phán hoạch định biên giới trên đất liền


Nhìn lại lịch sử, tiến trình đàm phán hoạch định biên giới và phân giới cắm mốc trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc đã trải qua những dấu mốc quan trọng. 


Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở vùng Đông Á đã ra đời hai nhà nước độc lập là Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa (1945) và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949). Đầu năm 1950, quan hệ ngoại giao giữa hai nước đã được chính thức thiết lập. Hơn 3 năm sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, tháng 11/1957, Ban bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) đã gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai bên tôn trọng đường biên giới lịch sử do hai bản Công ước về hoạch định biên giới đã ký kết năm 1887 và năm 1895 giữa chính quyền Pháp ở Đông Dương và triều đình nhà Thanh ở Trung Quốc về giải quyết mọi cuộc tranh chấp bằng con đường đàm phán. 


Tháng 4/1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của Việt Nam, tôn trọng đường biên giới lịch sử được hai bản Công ước Pháp- Thanh năm 1887 và năm 1895 xác lập. 


Cho đến sau Hiệp định Paris tháng 1/1973, vấn đề đàm phán về biên giới Việt Nam- Trung Quốc mới được khởi động. Cuộc đàm phán lần thứ nhất được tiến hành vào tháng 8/1974. Sau đó, do tình hình khu vực có nhiều biến động, quan hệ hai nước trở nên khó khăn, các cuộc đàm phán vẫn tiến hành nhưng không đem lại kết quả. 


Sau khi quan hệ giữa hai nước Việt Nam- Trung Quốc được bình thường hóa, ngày 7/11/1991, hai bên đã ký bản Hiệp ước tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới hai nước. Trải qua nhiều lần trao đổi, ngày 19/10/1993, bản Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ Việt Nam- Trung Quốc được ký đã đưa cuộc đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền đi vào thực chất. Kết quả là ngày 30/12/1999 tại Hà Nội, Chính phủ hai nước đã ký “Hiệp ước hoạch định biên giới trên đất liền giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”. 


Trên cơ sở Hiệp định năm 1999, hai bên phối hợp tiến hành khảo sát thực địa để phân giới cắm mốc trên suốt chiều biên giới dài 1449,566 km với 1970 cột mốc (1548 cột mốc chính, 422 cột mốc phụ, chưa kể 1 cột mốc ngã ba biên giới Việt Nam- Trung Quốc- Lào). Ngày 31/12/2008, công tác phân giới cắm mốc trên toàn biên giới đất liền Việt Nam- Trung Quốc đã cơ bản hoàn thành. 


Tiếp theo là việc đàm phán và ký kết các Nghị định thư về công tác phân giới cắm mốc, về quy chế quản lý biên giới, về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu. Ngày 14/7/2010, hai bên chính thức tuyên bố các văn kiện liên quan đến phân giới cắm mốc và quản lý biên giới đất liền Việt Nam- Trung Quốc có hiệu lực, hai bên bắt đầu quản lý theo đường biên giới mới. 


Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước xác lập được một đường biên giới rõ ràng trên đất liền 

Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc đánh dấu một bước tiến mới rất quan trọng trong việc xây dựng môi trường hòa bình, ổn định giữa hai nước và trong khu vực. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước xác lập được một đường biên giới rõ ràng trên đất liền với một hệ thống mốc quốc giới hiện đại, đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển giữa hai nước, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam- Trung Quốc. 

Yêu cầu của công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam -- Trung Quốc là gì
Bộ đội Biên phòng Việt Nam - Trung Quốc tuần tra song phương
trên biên giới đất liền (Ảnh: QĐND)

Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc và việc hoàn thành phân giới cắm mốc, xác định rõ ràng một đường biên giới trên đất liền tạo cơ sở để các ngành chức năng tiến hành quản lý biên giới một cách hiệu quả, ngăn ngừa hiện tượng xâm canh, xâm cư do thiếu hiểu biết về đường biên giới. Đây chính là tiền đề, là cơ sở pháp lý quan trọng để hai bên tiến hành quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc, mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, đặc biệt là tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên củng cố an ninh, mở rộng hợp tác và phát triển kinh tế. 


Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc và việc hoàn thành phân giới, cắm mốc đường biên giới trên đất liền, cùng với việc ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000, Việt Nam đã giải quyết được dứt điểm 2 trong 3 vấn đề lớn về biên giới lãnh thổ do lịch sử để lại trong quan hệ Việt- Trung. Hiệp ước cũng cho thấy thiện chí và quyết tâm của Việt Nam sẵn sàng giải quyết mọi tranh chấp về biên giới lãnh thổ, các vùng biển và thềm lục địa với các nước láng giềng trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. 


Nhắc lại sự kiện lịch sử này, nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương trong cuộc phỏng vấn với phóng viên VOV gần đây cho biết: Quãng thời gian Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đảm nhận cương vị người đứng đầu Đảng cũng là giai đoạn mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đàm phán tích cực với phía Trung Quốc về hoạch định lại biên giới trên bộ. Với tư cách là 2 người đứng đầu Đảng, Nhà nước khi đó, 2 nhà lãnh đạo rất quan tâm, luôn luôn lắng nghe các đơn vị báo cáo để cho ý kiến giải quyết dần dần, từ dễ đến khó, cho đến khi đạt được Hiệp định.


Cũng theo ông Trần Đức Lương, khi ký xong Hiệp định, trong dư luận vẫn còn có những điểm thắc mắc. Khi đó,  Đảng và Nhà nước tiếp tục tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu. Từ ngày ký Hiệp định biên giới trên bộ giữa hai nước thì tình hình biên giới êm hẳn, trong khi trước đó, biên giới được hoạch định từ thời Pháp với nhà Thanh, có nhiều điểm không rõ ràng và luôn luôn xảy ra tranh chấp trên suốt chiều dài biên giới. 


Ông Trần Đức Lương khẳng định, về mặt Nhà nước là tôi chịu trách nhiệm, về mặt Đảng đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu chịu trách nhiệm, luôn luôn làm việc chặt chẽ, cho ý kiến để Ban biên giới Chính phủ đàm phán từng nấc để cuối cùng thông qua Bộ Chính trị, thông qua Ban Chấp hành Trung ương, thông qua Quốc hội, đạt được Hiệp định về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với Trung Quốc./.

Theo VOV.VN

Ngày 05/3/2018, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang ban hành Hướng dẫn số 42-HD/BTGTU tuyên truyền về công tác phân giới, cấm mốc và quản lý biên giới đất liền năm 2018 trên địa bàn tỉnh. Mục đích nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, sự đồng thuận và sự ủng hộ của nhân dân trong nước, ngoài nước và bạn bè quốc tế về ý nghĩa, sự cần thiết của việc hoàn thành công tác phân giới, cấm mốc, xây dựng đường biên giới quốc gia hiện đại; đảm bảo trật tự an ninh biên giới và tầm quan trọng của việc xây dựng, quản lý đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Đồng thời, tiếp tục củng cố và thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nước ta với các nước có chung đường biên giới, hỗ trợ tích cực cho công tác phân giới, cấm mốc và quản lý biên giới trên thực địa; đấu tranh phản bác các thông tin sai sự thật, luận điệu xuyên tạc về các vấn đề liên quan đến chủ quyền, biên giới quốc gia.

Việt Nam là một quốc gia nằm ở cực Đông Nam Bán đảo Đông Dương. Biên giới Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan ở phía Nam, vịnh Bắc Bộ và biển Đông ở phía Đông, Trung Quốc ở phía Bắc, Lào và Campuchia phía Tây. Về biên giới đất liền, Việt Nam tiếp giáp với ba nước Trung Quốc, Lào, Campuchia.

Với Trung Quốc, Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài khoảng 1.406km tiếp giáp giữa 7 tỉnh của Việt Nam từ Tây sang Đông là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang - Quảng Tây của Trung Quốc. Hai nước đã ký nhiều văn bản pháp lý quan trọng về biên giới lãnh thổ, đặc biệt là Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc (gọi tắt là Hiệp ước 1999) được ký kết Ngày 30-12-1999 tại Hà Nội, đặt nền tảng quan trọng cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị và ổn định lâu dài giữa hai nước. Ngay sau khi ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc năm 1999, hai bên đã tiến hành đàm phám về phân giới cấm mốc và sau gần 8 năm đàm phán và triển khai phân giới cắm mốc trên thực địa, đến ngày 31/12/2008, Việt Nam và Trung Quốc đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền giữa hai nước. Theo đó, 02 bên đã kết thúc phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới dài khoảng 1.400 km từ Tây sang Đông (trong đó có 344 km đường biên giới đi theo 21 sông, suối chính) với  2.000 cột mốc đã được cắm, trong đó có hơn 1.500 cột mốc chính và hơn 400 cột mốc phụ. Sự kiện này mang lại ý nghĩa to lớn: Thứ nhất, việc hoàn thành phân giới cắm mốc góp phần xây dựng một đường biên giới hoàn chỉnh, chính quy, hiện đại và bền vững; tạo tiền đề vững chắc để xây dựng biên giới Việt - Trung hoà bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác; tạo thuận lợi cho công tác quản lý biên giới sau này. Điều đó có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Thứ hai, Việt Nam và Trung Quốc đã giải quyết được hai vấn đề lớn về biên giới lãnh thổ, đó là xác định biên giới trên đất liền và phân định Vịnh Bắc Bộ (Hiệp định ký năm 2000). Thứ ba, đây là biểu hiện sinh động của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, góp phần tăng cường sự tin cậy giữa hai bên; là cơ hội mới để mở rộng giao lưu hữu nghị, tăng cường hợp tác hệ kinh tế, thương mại... giữa hai nước, đặc biệt là các địa phương hai bên đường biên.

Với Lào, Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài khoảng 2.340km, trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam là: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào là: Phỏng-sả-lỳ, Luổng-pha-bang, Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Bô-ly-khăm-xay, Khăm-muồn, Sa-vắn-nạ-khệt, Sả-lạ-văn, Sê-kông và Ắt-tạ-pư. Hai nước đã ký nhiều văn bản pháp lý quan trọng về biên giới lãnh thổ, đặc biệt là "Hiệp ước hoạch định đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" ký ngày 18/7/1977. Thực hiện Hiệp ước hoạch định nói trên, trong giai đoạn 1978 - 1987, hai bên đã tổ chức và hoàn thành cơ bản công tác phân giới cắm mốc đường biên giới trên thực địa, giải quyết xong các vấn đề phát sinh liên quan đến việc giải quyết biên giới giữa hai nước. Từ năm 2008 đến năm 2016, hai nước phối hợp triển khai Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào nhằm nâng cao, hoàn thiện chất lượng đường biên giới giữa hai nước cả trên thực địa và hồ sơ pháp lý. Hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước có 1.002 cột mốc và cọc dấu tại 905 vị trí, được ghi nhận chi tiết tại Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới Việt Nam - Lào ký ngày 16/3/2016. 

Với Campuchia, Việt Nam có chung đường biên giới trên đất liền dài khoảng 1.137km, đi qua 10 tỉnh của Việt Nam (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang), tiếp giáp 9 tỉnh của Campuchia (Rattanakiri, Mondulkiri, Kratié, Tboung Khmum, Svayrieng, Preyveng, Kandal, Takeo và Kampot). Ngày 27/12/1985, tại Phnom pênh, Việt Nam và Campuchia đã ký kết Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia. Thực hiện công tác phân giới, cắm mốc biên giới theo Hiệp ước hoạch định năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005, từ năm 2006 đến tháng 4/2017, qua 10 năm nỗ lực, hai bên đã đạt một số kết quả khả quan trong việc phân giới, cắm mốc. Tính đến tháng 4/2017, hai bên đã hoàn thành khoảng 84% khối lượng công việc phân giới, cắm mốc trên thực địa. Cụ thể: Xây dựng 314/371 cột mốc chính (đạt 84,6%), phân giới được khoảng 929/1.137 km đường biên giới (đạt khoảng 81,7%), quy thuộc được 111 cồn bãi trên sông suối biên giới (trong đó quy thuộc Việt Nam 43 cồn bãi, quy thuộc Campuchia 68 cồn bãi), hoàn thành việc hoán đổi các diện tích quản lý vượt quá sang nhau theo "Bản ghi nhớ về việc điều chỉnh đường biên giới trên bộ đối với một số khu vực tồn đọng giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia" (MOU) và áp dụng  mô hình MOU tại 6 cặp tỉnh (Tây Ninh – Tboung Khmum, Svayrieng; Đồng Tháp – Preyveng; An Giang – Takeo và Kiên Giang – Takeo, Kampot). Hiện hai bên vẫn còn tồn đọng 6 khu vực chưa hoàn thành việc hoán đổi đất theo mô hình MOU tại các cặp tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk – Rattanakiri, Mondulkiri và Long An – Svayrieng. Tuy nhiên, đến nay hai bên mới thống nhất được Biên bản mô tả hướng đi của đường biên giới cho 253/929km đường biên đã phân giới tại thực địa và giải quyết một số vấn đề khác có liên quan (quy thuộc cồn bãi trên sông suối biên giới, lập hồ sơ mốc giới, hoán đổi đất ở một số khu vực cần hoán đổi…). Ngoài ra, hai bên thống nhất bổ sung 1.530 cột mốc phụ, 210 cọc dấu trên thực địa để làm rõ thêm hướng đi của đường biên giới. Theo thỏa thuận, Việt Nam xây dựng 730/1.530 mốc phụ và 98/210 cọc dấu có số hiệu chẵn, Campuchia xây dựng 800/1.530 mốc phụ và 118/210 cọc dấu có số hiệu lẻ. Đến nay, hai bên đã xác định vị trí trên thực địa được 907/1.530 cột mốc phụ (đạt 60%) và 38/210 cọc dấu (đạt khoảng 18%), xây dựng được 214 cột mốc phụ và 13 cọc dấu. Trong đó Việt Nam xây dựng được 183 cột mốc phụ, 11 cọc dấu và phía Campuchia đã xây dựng được 31 mốc phụ, 2 cọc dấu. Trên tuyến biên giới Việt  Nam – Campuchia đã có các tỉnh Kon Tum, Bình Phước và Đồng Tháp hoàn thành việc xây dựng các cột mốc chính và phân giới trên thực địa. Hiện nay, hai nước đang tiếp tục giải quyết 7 đoạn biên giới tồn đọng chưa phân giới, cắm mốc. Cụ thể là: Các đoạn biên giới từ mốc số 30-40, 56-60, 138-146, 241-245, 247-253, 295-302 và cụm cồn thượng lưu 26 trên sông Sê San thuộc địa bàn các tỉnh Gia Lai, Đắk Nông, Tây Ninh, An Giang và Kiên Giang; ngoài ra còn cồn Nhỏ trên sông Hậu (Bassac), chưa tiến hành đo thủy văn xác định trung tuyến dòng chính tàu thuyền đi lại, từ đó quy thuộc cồn này. Tiếp tục trao đổi giải quyết 6 khu vực chưa hoàn thành hoán đổi theo mô hình MOU thuộc địa bàn các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Long An. Xây dựng 55 cột mốc chính (tại 7 đoạn biên giới tồn đọng chưa phân giới, cắm mốc và 6 khu vực chưa hoàn thành hoán đổi theo MOU); toàn bộ cột mốc phụ và cọc dấu bổ sung để làm rõ hướng đi của đường biên giới trên thực địa. Hoàn thành hồ sơ phân giới, cắm mốc (gồm hồ sơ mốc quốc giới, hồ sơ phân giới, bảng quy thuộc cồn bãi và các văn bản pháp lý liên quan khác). Hoàn chỉnh việc thành lập Bộ bản đồ đường biên giới quốc gia Việt Nam – Campuchia; ký kết "Nghị định thư phân giới, cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Campuchia" và "Hiệp định mới về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam – Campuchia". 

Biên giới quốc gia vừa được xem là cơ sở pháp lý vừa là nền tảng vật chất, tinh thần cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Bất kỳ nước nào cũng rất xem trọng việc xác định biên giới quốc gia một cách rõ ràng, minh định, phù hợp với thực tiễn luật pháp quốc tế. Do đó, với những thành quả đạt được trong công tác phân giới, cắm mốc và quản lý biên giới đất liền giữa Việt Nam với các nước láng giềng có thể được xem là thắng lợi chung của các nước; và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc củng cố và thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các bên./.

 Thanh phong