Tại sao chính phủ can thiệp vào FDI

Khi hướng vào mục đích tăng cường những lợi ích của mình, hầu hết các nước đang phát triển đều kết hợp ở mức độ qui định nào đó giữa FDI và những chính sách khuyến khích khác nhau để thu hút đầu tư. Trong những năm 1960 và phần lớn những năm 1970 đã xuất hiện một xu thế chung hướng tới những biện pháp hạn chế lớn hơn: có nhiều hình thức của nguồn tài chính bên ngoài hơn, do kết quả của một số hoạt động FDI trước đó không được khả quan,và tính tự hào dân tộc ở nhiều nước tăng lên. Một số nước đang phát triển cũng đã hạn chế các hạng mục đầu tư nước ngoài để bảo hộ các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây một số nước đã lựa chọn chính sách linh hoạt hơn, một phần do cần thiết phải củng cố địa vị kinh tế và tài chính đối ngoại hiện đang yếu kém. Phần này sẽ đề cập tới các chính sách đó, cũng như ảnh hưởng của một số hình thức hạn chế và khuyến khích chủ yếu mà nhiều nước đang phát triển lựa chọn. Tuy nhiên, trong khi tiến hành thảo luận các chính sách này, ta cần nhớ lại rằng việc tạo ra môi trường kinh tế ổn định và việc lựa chọn các chính sách tài chính và tỷ giá hối đoaí thích hợp thậm chí có thể còn quan trọng hơn các biện pháp cụ thể, ví dụ như ưu đãi thuế để khuyến khích FDI.

Mặc dầu sự phối hợp các chính sách đã lựa chọn phần lớn phụ thuộc vào chiến lược phát triển của đất nước và vào quan điểm của thị trường, nhưng sức hấp dẫn cơ bản với tư cách là một địa bàn đầu tư cũng quan trọng, vì điều đó tác động đến thế thương lượng của đất nước trước các nhà FDI. Các yếu tố như qui mô của thị trường trong nước, nền sản xuất định hướng xuất khẩu có tiềm năng và quyền sử dụng các nguồn lực tự nhiên, sẽ ảnh hưởng tới cách kết hợp các chính sách điều chỉnh và khuyến khích được lựa chọn. Như đã lưu ý ở trên, một số nước (đặc biệt là các nước châu Phi và vùng Caribê) với những thị trường nội địa nhỏ và các nguồn lực tự nhiên hạn chế đã không có khả năng thu hút những luồng vào có ý nghĩa của hoạt động FDI trong những năm 1970, mặc dù đã đưa ra những điều khoản khuyến khích đáng kể. Tuy nhiên, một số ít nước với các thị trường nội địa tương đối nhỏ (bao gồm Hong Kong, Singapore, và trong một chừng mực nào đó là Malaixia) theo đuổi các chính sách kinh tế mở cửa và ít hạn chế đối với hoạt động FDI, đã thu hút được nhiều FDI định hướng xuất khẩu quan trọng, trong khi nhìn chung họ chỉ đưa ra những điều khoản khuyến khích vừa phải. Trái lại, nhiều nước với các thị trường có nội địa rộng lớn (như Ấn Độ, Nigeria, và hầu hết các nước châu Mỹ Latinh), có tiềm năng lớn hơn trong việc thu hút các hoạt động FDI cho nền sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu, đã đặt ra một số hạn chế hoặc những yêu cầu thực hiện cụ thể để giành nhiều ích lợi hơn. Những biện pháp hạn chế này thường được kết hợp với các điều khoản khuyến khích khác nhau, làm cho các nhà đầu tư trực tiếp phải đứng trước hệ thống các chỉ tiêu phức tạp, đôi khi khác xa với giá cả thị trường hiện hành.

Trong nhiều trường hợp, việc sàng lọc và các qui định đối với hoạt động FDI có thể cải thiện được thế thương lượng cuả nước chủ nhà và đã khiến các hoạt động FDI dễ được chấp nhận về mặt chính trị. Tuy nhiên, sự lẫn lộn phức tạp của các điều khoản khuyến khích hoặc hạn chế đôi khi làm cho người ta khó đánh giá tổng hợp sự đóng góp của nguồn vốn đầu tư FDI. Nhưng tuy thường ngăn trở các hoạt động đầu tư mới, các qui định hạn chế không phải lúc nào cũng át được lợi thế của các nước có địa điểm đầu tư hấp dẫn. Trong một vài trường hợp, các qui chế phức tạp hay thay đổi thất thường khiến người ta dễ nản hơn so với các biện pháp kiểm soát khắt khe nhưng ổn định và rõ ràng.

Vai trò Chính phủ về FDI không chỉ dừng lại ở chính sách khuyến khích. Hầu hết các Chính phủ đều có vai trò trực tiếp khuyến khích hay hạn chế FDI, quản lý quá trình FDI, và tạo ra khuôn khổ thể chế hỗ trợ.

Sự khuyến khích của Chính phủ nước chủ nhà có thể chia làm bốn dạng. Dạng thứ nhất là nhằm giúp tăng thu cho các hãng có FDI. Những khuyến khích loại này bao gồm thuế qui định thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của hãng, miễn thuế trong một thời hạn nào đó đối với sản phẩm của hãng. Hầu hết các nước chủ nhà muốn khuyến khích đầu tư nước ngoài đều cung cấp cho các nhà đầu tư trọn gói cơ sở hạ tầng, thường là khu chế xuất hay khu tự do thương mại. Một số nước chủ nhà giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm rủi ro phi kinh tế, đảm bảo không quốc hữu hoá hay sung công tài sản của họ. Các nước chủ nhà đầu tư cũng ký với các nước nhận đầu tư những hiệp ước song phương để bảo hộ đầu tư, bảo lãnh đầu tư, nhằm bảo hiểm rủi ro về chính trị đối với khả năng không chuyển đổi đồng tiền, sung công, chiến tranh hay bạo động và vi phạm hợp đồng (cơ quan Bảo lãnh Đa phương (MIGA) của Ngân hàng Thế giới (WB), thành lập năm 1988, đóng vai trò này. Bảo hiểm tư nhân, như của các công ty Lloyd’s London, cũng càng ngày càng quan trọng hơn).

Các biện pháp hạn chế bao gồm không cho phép FDI vào một số lĩnh vực, đặc biệt là những lĩnh vực công nghệ thấp mà các hãng trong nước có thể đảm đương được, hoặc cái gọi là ngành “chiến lược”, giới hạn tỷ lệ góp vốn liên doanh, bắt buộc tăng dần tỷ lệ góp vốn của bên đối tác trong nước sau một số năm nhất định, hạn chế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, đề ra chỉ tiêu hoạt động như tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu, hay qui định về hàm lượng trong nước, hạn chế khả năng tiếp cận thị trường tài chính, hoặc khả năng bán sản phẩm trong thị trường nội địa.

Chính phủ quản lý quá trình FDI nhờ vai trò chủ động can thiệp trong quá trình đàm phán và giám sát hoạt động. Kinh nghiệm của các nước Đông Á cho thấy rằng nên sử dụng luật áp dụng chung cho mọi cuộc đàm phán chứ không nên qui định cho từng trường hợp như châu Mỹ Latinh vẫn áp dụng. Cũng tương tự, nên chỉ có một cơ quan phụ trách về đàm phán. Chính phủ cũng vẫn đóng vai trò tích cực ngay cả khi FDI đã được thực hiện dưới hình thức giám sát hoạt động của các xí nghiệp có vốn FDI. Việc giám sát bao gồm các điều khoản thuế, kiểm tra không cho tiến hành giao dịch giá chuyển nhượng trong nội bộ hãng, sản lượng ra thị trường và đào tạo cho công nhân bản xứ. Một số Chính phủ cũng đo lường FDI trên cán cân thanh toán. Cũng cần kiểm tra độ lạc hậu của công nghệ, và thời hạn đàm phán hoặc điều chỉnh của hợp đồng FDI. Nếu có cơ quan mạnh thì việc quản lý FDI sẽ hiệu quả hơn. Ở các nước đang phát triển, cần phải tăng cường thể chế trên hai lĩnh vực - năng lực công nghệ và quá trình ra quyết định. Về vấn đề thứ nhất, những yếu kém về phân tích đầu tư của các cơ quan phụ trách FDI khiến họ không chọn những dự án FDI có lợi nhất cho quốc gia. Thậm chí những người có năng lực kỹ thuật không phải lúc nào cũng phân tích đầu tư một cách có hệ thống. Về khả năng ra quyết định thường phản ánh ý chí chính trị yếu, khiến các chính sách của Chính phủ được thực thi không nhất quán. Các nước Đông Á thành công trong việc khuyến khích FDI có các cơ quan phụ trách FDI mạnh (thường trực thuộc Thủ tướng). Và không phải lúc nào người ta cũng nhận thức được rằng, cần phải có riêng hai cơ quan phụ trách vấn đề qui định và khuyến khích FDI.

FDI có thể có một số hình thức: liên doanh, buôn bán đối ứng, cấp giấy phép công nghệ hay quản lý; 100% sở hữu xí nghiệp của nước ngoài; và cùng sản xuất. Trung Quốc đã quyết định quan hệ với người nước ngoài chủ yếu thông qua các liên doanh, và các liên doanh này sẽ có thời gian cụ thể nhưng khá dài - trong nhiều trường hợp là 20 tới 30 năm. Hình thức FDI nào của nước ngoài vào nước chủ nhà là tốt nhất phụ thuộc vào đặc điểm của nền công nghiệp, trình độ phát triển của nước liên quan và bên đối tác.

Liên doanh: Trong một số ngành công nghiệp, một chi nhánh công ty có quốc gia hoạt động ở một nước, song không có mối quan hệ gần gũi với hệ thống đa quốc gia liên kết. Thí dụ, một khách sạn có thể hoạt động độc lập với nhà đầu tư, trừ hệ thống giữ chỗ và đào tạo nhân viên kỹ thuật, trong khi đó đối tác trong nước hoạt động và bảo dưỡng khách sạn đó và thuê nhân viên. Trong trường hợp đó, liên doanh có thể tạo được mối quan hệ bền vững và lâu dài. Nhưng trong các ngành công nghiệp khác, như dược phẩm chẳng han, duy trì được mối quan hệ ổn định lại cực kỳ khó khăn, bởi vì có rất nhiều điểm xung đột giữa chi nhánh của nước chủ nhà và các chi nhánh khác trong cùng hệ thống. Liên doanh tất yếu dẫn đến chấm dứt và một bên đối tác sẽ phải nắm toàn bộ xí nghiệp. Do vậy, cần phải phân biệt rõ ràng đối với từng ngành công nghiệp.

Điều cần phân biệt thứ hai lại càng tinh tế hơn. Bên đối tác của nước chủ nhà làm gì trong một liên doanh? Liệu ngủ im lìm cả ngày hay cố gắng quan sát công nghệ và kỹ thuật về thị trường mà bên đối tác nước ngoài sẽ dạy? Các đối tác trong nước ở một số quốc gia, trong nhiều trường hợp, đã đi ngủ. Họ không thấy cần thiết phải hiểu về vấn đề thị trường vì đối tác nước ngoài đã làm điều đó; đồng thời họ cũng không thấy cần phải nắm vững công nghệ vì nếu có trục trặc, bên đối tác nước ngoài sẽ đến sửa chữa. Nếu suy nghĩ như vậy thì đối tác trong nước sẽ đi ngủ, và sau đó hợp đồng liên doanh sẽ trở nên tồi tệ.

Buôn bán đối ứng: Đây là hình thức phức tạp hơn so với liên doanh. Bạn hàng có thể là một nước có chính sách hạn chế nhập khẩu chặt chẽ và không muốn buôn bán chút nào, trừ trường hợp trao đổi nguyên liệu hai chiều. Thí dụ như Brazil, đang gặp nhiều khó khăn trong cán cân thanh toán, có thể cho phép một số giao dịch nhất định có trao đổi đối ứng hàng hoá. Trong trường hợp như thế, biện pháp duy nhất có thể tiến hành buôn bán đối ứng. Nhưng cũng có những trường hợp buôn bán đối ứng lại có hại. Chẳng hạn Trung Quốc có chè xuất khẩu có thể bán ở các thị trường có ngoại tệ mạnh nếu chè đó được đóng gói và chào hàng đúng, và như vậy buôn bán đối ứng lại có hại. Chắc chắn, đi ngủ là một cách dễ dàng đối với nhà quản lý xuất khẩu chè, không phải lo lắng nghiên cứu gì về thị trường, cải tiến việc đóng gói và nghiên cứu giá cả. Nhưng bằng việc giao dịch theo cách này với một nước khác, chè tốt - nhẽ ra có thể bán được giá hời hơn ở nơi khác - bị trao đổi lấy máy móc với giá qui đổi thấp hơn. Theo quan điểm của các nhà mậu dịch, các giao dịch loại này thường phản sản xuất vì làm giảm bớt sức ép đối với nhà xuất khẩu trong việc mở rộng thị trường có ngoại tệ mạnh. Do vậy, các trường hợp rất khác nhau, nó phụ thuộc vào các cơ hội có thể có ra sao.

Thoả thuận cấp giấy phép (hợp đồng li xăng) và đầu tư 100% vốn nước ngoài: Đây là hai hình thức ổn định hơn so với hai hình thức trên. Trong các thoả thuận về giấy phép, bên nước ngoài chỉ thực hiện ít nhiệm vụ, chủ yếu là đưa công nghệ hay quản lý vào và đôi khi đảm nhận công tác thị trường cho một sản phẩm; thay vì chia xẻ lợi nhuận, bên nước ngoài sẽ nhận một khoản phí hoặc một tỷ lệ phần trăm nào đó của gía trị hàng bán được cho các dịch vụ đó. Đối với đầu tư 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài giữ quyền kiểm soát toàn bộ xí nghiệp đặt tại nước chủ nhà, và không chia sẻ việc quản lý với các nhà đầu tư trong nước. Trong hai trường hợp, trách nhiệm của các bên chủ chốt là rõ ràng. Trong trường hợp cấp giấy phép, bên chủ nhà phải nắm công nghệ,học cách bán sản phẩm và không chia sẻ trách nhiệm với ai. Trong trường hợp 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài đảm nhận mọi trách nhiệm . Trong trường hợp có sự lựa chọn liên quan đến đối tác, nếu bên trong nước thụ động, nước chủ nhà có thể sẽ không có được lợi nhuận lâu bền. Nhiều nước do đó đã thích lựa chọn theo cách thoả thuận cấp giấy phép và quyền sở hữu 100% hơn so với cách khác. Nhật Bản chẳng hạn, trong nhiều thập kỷ qua chủ yếu theo cách thoả thuận cấp giấy phép và đạt kết quả rất tốt.

Nhằm theo đuổi chính sách khuyến khích cách thoả thuận cấp giấy phép trong đầu tư trực tiếp, nước chủ nhà phải chuẩn bị đầu tư mạnh vào giáo dục để đào tạo kỹ thuật viên và cán bộ quản lý, thường họ gửi ra nước ngoài học tập dài hạn.

Ngoài ra, còn có một loại hình nữa ít phổ biến hơn ba hình thức trên đó là loại hình Hợp đồng Hợp tác kinh doanh.