Bài luận về phép học lop8 học thêm

– Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Thiếp – một viên quan dưới triều nhà Lê, có nhiều đóng góp cho xây dựng đất nước về chính trị.

– Bàn luận về phép học là một bài tấu đã khát quát và đưa ra một cách khách quan nhất về mục đích của việc học và cách học sao cho đúng đắn đạt hiệu quả.

2. Thân bài

a. Bàn luận về mục đích của việc học

– Khái quát mục đích của việc học: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo” => chân lí học tập đúng đắn từ lâu đời

– Chỉ bằng con đường học tập thì con người mới trưởng thành, là người có đạo đức

– Học là một quá trình tất yếu, quy luật muôn đời

– Phê phán lối học hình thức

– Nêu lên hậu quả khôn lường của những lối học tiêu cực ấy

⇒ Những lời bàn luận sâu sắc, nghiêm túc, xác đáng với tầm nhìn cao rộng, đầy tâm huyết với nước nhà

b. Bàn luận về cách học

– Phê phán những cách học sai lầm và nêu rõ mục đích tai hại của nó

– Tác giả cũng đã trình bày quan điểm tích cực của mình về chủ trương phát triển sự học cho thật hiệu quả

– Bên cạnh đó tác giả còn nêu lên chủ trương phát triển sự học sâu rộng khắp cả nước

⇒ Về nội dung học, tác giả vẫn đi theo truyền thống cũ, không đưa ra điều gì mới mẻ mà chủ yếu là cải cách về phương pháp học

c. Tác dụng của phép học

– Mục đích học chân chính, cách học tích cực sẽ là cơ sở vững chắc cho đạo học, bồi dưỡng được nhân tài cho quốc gia

⇒ Tin tưởng rằng, học chân chính nhất đinh trường tồn và cũng gửi gắm niềm hi vọng về tương lai tốt đẹp của đất nước

3. Kết bài

– Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật: Là bản tâu của Nguyễn Thiếp về việc học để phần nào củng cố, kiến thiết xây dựng nước nhà phát triển theo hướng chú trọng giáo dục.

– Liên hệ: Bản thân mỗi người nhất là học sinh cần chú trọng việc học tập, tu dưỡng để đưa đất nước ngày càng giàu đẹp bằng con đường học tập chân chính

Phân tích bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp – mẫu 1

La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là danh sĩ nổi tiếng cuối đời Hậu Lê và là một trong những vị khai quốc công thần triều Tây Sơn, người có công rất lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Thanh, xây dựng, sửa sang đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà lúc bấy giờ. Bàn luận về phép học (Luận học pháp) là bài viết tiêu biểu, phản ánh đầy đủ tài trí, tư tưởng và bản lĩnh của Nguyễn Thiếp.

Khi được hỏi về kế sách trị quốc về lâu dài, tháng 8 năm 1791, Nguyễn Thiếp đã dâng vua Quang Trung bản tấu văn với ba phần gồm: quân đức (đức của vua), dân tâm (lòng dân), và học pháp (phép học). Nội dung chính của ba phần thực ra đều thống nhất ở chỗ, là lời khuyên vua nên tu đức để khiến lòng dân quy thuận, tính kế lâu dài. Trong đó, phần cuối – Luận học pháp (được đưa vào trích giảng trong chương trình Ngữ văn 8) chủ yếu bàn về phép học để thông qua đó, định hướng cả xã hội hướng theo đạo lí Thánh hiền. Đây cũng là đoạn chứa đựng những tư tưởng giáo dục có ý nghĩa chiến lược của La Sơn Phu Tử.

Phần đặt vấn đề của đoạn này ngắn gọn nhưng khái quát được ý nghĩa sâu xa của việc học, bằng cách trích dẫn câu châm ngôn mà lí lẽ của nó được coi là đúng một cách hiển nhiên: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Vai trò và mục đích của việc học là để hiểu đạo lí. Đạo – theo tác giả, “là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”. Học để hiểu đạo là học để hiểu lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Con người dẫu thông minh, dẫu có “tính bản thiện” nhưng nếu không được học hành cũng như ngọc không được mài.

Tiếp đó, tác giả nêu ra một thực trạng của nền giáo dục đương thời mà bất cứ nhà nho chân chính nào cũng phải đau lòng: “Nước Việt ta từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền”. Người học không chú ý học những tri thức mang tính căn cốt mà chỉ “đua nhau lối học hình thức”; không coi trọng mục đích học để hiểu đạo lí mà chỉ để thi cử “hòng cầu danh lợi”. Theo quan niệm của nhà nho xưa, nếu quá coi trọng danh lợi, người ta dễ đánh mất tính thiện của mình, coi trọng danh lợi là phải mưu toan, phải tranh đoạt và tất cả những hiện tượng đó sẽ là nguyên nhân để người ta bất chấp đạo lí. Thế nên, Nguyễn Thiếp cho rằng, vì đua nhau lối học hình thức mà con người “không còn biết đến tam cương, ngũ thường”.

Tam cương là ba mối quan hệ được nhà nho xưa coi là giềng mối, là trụ cột của của gia đình và xã hội; đó là mối quan hệ giữa vua – tôi (quân – thần), cha – con (phụ – tử) và vợ – chồng (phu – thê). Có thể ngày nay ta lí giải khác về nguyên nhân dẫn đến sự ổn định hoặc bất ổn của một xã hội nhưng ở thời Nguyễn Thiếp, các nhà nho chân chính đều tin rằng: nếu trong gia đình, mối quan hệ cha – con, vợ – chồng được duy trì tốt thì gia đình yên ấm; trong xã hội, mối quan hệ vua – tôi được duy trì tốt thì xã hội ổn định kỉ cương. Sự duy trì tốt của Tam cương có liên hệ chặt chẽ với Ngũ thường. Ngũ thường là năm đức tính để con người ta trở nên có đạo, có đức gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Tam cương là để duy trì phép nước và nếp nhà (quốc pháp, gia quy); ngũ thường là để tu thân, sửa đức. Xã hội thiếu Tam cương thì riềng mối trụ cột lung lay, dễ trở nên loạn lạc; con người thiếu ngũ thường sẽ không biết ứng xử, hành động theo lễ nghĩa, dễ trở nên vô đạo. Bằng ngòi bút phê phán, Nguyễn Thiếp đã chỉ rõ, lối học hình thức, “hòng cầu danh lợi” là mối nguy hại của đất nước: tạo ra một tâm lí chung không coi trọng đạo lí; không coi trọng đạo lí dẫn tới một thực trạng kéo dài “chúa tầm thường, thần nịnh hót”.

Như vậy, khi nêu ra thực trạng này, Nguyễn Thiếp đã chỉ ra, đạo học có liên quan chặt chẽ tới vận nước và theo cách lí giải ấy, ông cho rằng các tập đoàn phong kiến đương thời nhanh chóng sụp đổ khi Tây Sơn nổi lên có nguyên nhân sâu xa từ sự học mà ra. Đánh giá số phận của triều đại trước, ông cho rằng “nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Đây cũng là lí do giải thích vì sao La Sơn Phu Tử dù có đỗ cao ở thời Lê mà vẫn lui về dạy học chứ quyết không ra làm quan. Và điều quan trọng hơn cả trong khi nêu thực trạng, Nguyễn Thiếp đã chỉ rõ nguy cơ mất nước nếu việc chạy đua theo lối học chỉ để cầu danh lợi vẫn tồn tại. Đó là lời tấu trình kín đáo với ngụ ý: mong hoàng thượng hãy nhìn vết xe đổ của tiền triều, lấy “việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi” để rút ra bài học trị quốc cho mình.

Từ việc xác định rõ thực trạng giáo dục đương thời, chỉ ra nguy cơ mất nước nếu không xác định trúng mục đích của sự học, Nguyễn Thiếp đã đưa ra những giải pháp có tính toàn diện để mong làm thay đổi căn bản nền giáo dục nước nhà.

Trước tiên – theo tác giả, phải mở rộng quy mô của việc học và đối tượng học. Nguyễn Thiếp đã khẩn thiết “cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”. Ở thời phong kiến, việc học chỉ được tập trung ở kinh kỳ và những địa điểm trung tâm, đối tượng đi học chủ yếu là con em quan lại, quý tộc. Vì thế, giải pháp này nhằm khắc phục sự hạn chế về quy mô và đối tượng học trước đó, tạo điều kiện thuận lợi có ý nghĩa “phổ cập” cho nhiều người được đi học và có thể đi học ở nơi gần nhất.

Sau nữa, tác giả đề xuất giải pháp thay đổi cả nội dung lẫn phương pháp dạy và học. Ông cho rằng: “Phép dạy, nhất định phải theo Chu Tử”. Chu Tử là nhà giáo dục nổi tiếng thời Nam Tống, ông là người đề xướng và kiên trì phương pháp dạy học phải đi tuần tự từ thấp đến cao. Và theo phép dạy ấy Nguyễn Thiếp khuyên rằng, người học “lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm”. Nội dung giáo dục mà La Sơn Phu Tử đề xuất tuy không còn phù hợp với ngày nay nhưng tư tưởng và phương pháp giáo dục này luôn đúng ở mọi thời đại. Ở thời nào, người học muốn có thành tựu đều phải học tuần tự từ thấp đến cao, ở thời nào người học cũng phải cần một khả năng khái quát (học rộng rồi tóm lược cho gọn) và ở bất kỳ thời nào người học cũng phải chú ý nguyên tắc “học đi đôi với hành” (theo điều học mà làm).

Giải pháp thay đổi cách dạy và cách học mà Nguyễn Thiếp đề xuất nhằm hướng đến khắc phục lối học hình thức, khôi phục “nền chính học thất truyền”, chống bệnh học chỉ để cầu danh lợi. Đây cũng là con đường để hướng tới mục đích cao hơn, xa hơn: để cho “kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên”.

Bản tấu văn tuy chỉ bàn về phép học nhưng ở đó có cả những tư tưởng mang tính chiến lược về trị quốc lâu dài: tư tưởng trọng người tài, phù hợp với nội dung Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung (Do Ngô Thì Nhậm soạn). “Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”. Câu văn này tuy ngắn nhưng chứa đựng biết bao những trăn trở của một trí thức tâm huyết muốn đem tài học giúp đời, là giọng điệu của bề tôi trung muốn đem tâm nguyện để giúp minh quân thu phục được lòng người, là cách ổn định phép nước từ trong gốc rễ bởi chỉ có dùng đạo học trị quốc, lấy chữ nghĩa Thánh hiền để giáo hóa con người, thu phục được nhân tâm, quy nhân tâm về một mối thì thiên hạ mới thái bình. Phải đặt trong hoàn cảnh thời đại Nguyễn Thiếp sống, khi chế độ phong kiến khủng hoảng, chiến tranh liên miên, dân sinh điêu đứng mới thấy cái khát khao một nhà nước “vững yên” tha thiết đến nhường nào. Khát khao ấy được tác giả gửi cả vào bản tấu, gửi cả vào vị vua mà ông tin rằng đó là minh quân, thánh đế – vua Quang Trung.

Xem thêm bài viết hay:  Phân tích Hình ảnh Làng Vũ Đại trong truyện ngắn Chí Phèo hay nhất - Ngữ văn lớp 11

Ở phần kết tác, giả tóm lược vấn đề bằng một câu văn ngắn gọn và vẫn nói về vai trò của việc học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Nếu ở phần nêu thực trạng, tác giả lập luận theo lối nêu phản đề thì ở phần kết là lối nêu chính đề. Phản đề cho rằng, đạo học suy khiến triều đình chỉ có “chúa tầm thường, thần nịnh hót”; chính đề cho rằng khi đạo học thành thì “triều đình ngay ngắn, thiên hạ thịnh trị”. Đó là tư tưởng, là mục đích cốt lõi của việc học.

Luận học pháp nói riêng và toàn bộ bản tấu văn của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung là văn bản giàu sức thuyết phục. Sức thuyết phục của bản tấu thể hiện lời lẽ ôn hòa, khiêm cung, dung dị; không dùng nhiều điển tích, điển cố nhưng sâu sắc và hợp tình, hợp lí. Tư tưởng của Nguyễn Thiếp – như đã nói ở trên, không mới nhưng đáng trọng ở chỗ giàu tính nhân văn. Tư tưởng ẩy còn thể hiện tầm nhìn xa, là sự chú trọng đến việc ổn định đất nước lâu dài của một bậc hiền giả và việc nêu ra mối quan hệ giữa giáo dục với sự ổn định, phồn vinh lâu dài của đất nước vẫn luôn là bài học, là tư tưởng không thể bác bỏ.

Phân tích bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp – mẫu 2

“Bàn luận về phép học” là đoạn văn trích từ hài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Lúc bấy giờ Nguyễn Thiếp đang làm Viện trưởng viện Sùng chính, phụ trách việc biên soạn sách và xây dựng Trung đô Phượng Hoàng (Nghệ An), một công việc vô cùng to lớn và hết sức nặng nề.

Bài tấu này thể hiện cái tâm của Nguyễn Thiếp đối việc chấn hưng nền quốc học, nền giáo dục nước nhà, nhằm mở mang dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước.

Các vấn đề như mục đích việc học, nội dung học tập và phương pháp học tập đã được Nguyễn Thiếp trình bày một cách ngắn gọn và tường tận.

Mở đầu, ông nhắc lại câu cổ ngữ: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Vậy mục đích học là biết “lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người”. Nói cách khác, học để mở mang trí tuệ và bồi bổ đạo đức. Đạo mà Nguyễn Thiếp nói đến là đạo làm người. Ông than phiền “nền chính học đã bị thất truyền”, Có biết bao tệ lậu đáng chê trách như “đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi”, coi thường đạo lí “không còn biết đến tam cương, ngũ thường”. Nhà dột từ nóc: “Chúa trọng nịnh thần”. Ví dụ, cuối thời Lê – Trịnh, tệ nạn buôn quan bán tước hoành hành. Sử sách cho biết vào năm 750, đời vua Lê Hiển Tông, vì Nhà nước thiếu tiền, đã đặt ra lệ thu tiền thông kinh: hễ ai nộp ba quan thì được đi thi hương, không phải khảo hạch. Thành ra những người làm ruộng, đi buôn, ai cũng nộp quyển vào thi; rồi người thì dùng sách, kẻ thì thuê người làm bài; kẻ thuê học mười người khống được một (theo Dương Quảng Hàm). Sống trong thời kì đen tối, loạn lạc ấy, Nguyễn Thiếp vô cùng đau buồn, thở than: “Nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Nguyễn Thiếp đã có một cách nói trầm tĩnh, ôn hòa mà sâu sắc.

Phần thứ hai, Tiên sinh nói đến nội dung và phương pháp học tập. Học ở đâu? – Trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại “đều tùy đãi tiện đấy mà đi học”. Học cái gì? Tác giả bài tấu cho hay: “Nhất định theo Chu Từ” (1130 – 1200). Một học giả đời Nam Tống. Nội dung học tập: “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử”. Điều đó cho thấy, nội dung học tập mà Nguyễn Thiếp nêu lên không có gì mới, ông chưa vượt qua được những hạn chế của lịch sử và của thời đại. Sách Tàu đi mấy nghìn năm vẫn được tôn thờ! vẫn coi trọng thơ văn, chưa hướng tới khoa học.

Về phương pháp học, ý kiến của Nguyễn Thiếp rất xác đáng và tiến bộ. Coi trọng vấn đề thiết yếu cơ bản: “Học rộng rồi tóm lược cho gọn”. Học phải đi đôi với hành “theo điều học mà làm”. Niềm mong ước của ông rất đẹp và chân thành: “Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, Nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”.

Đạo học, ý nghĩa to lớn của đạo học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều, người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Đúng là việc học góp phần đào tạo nhân tài, mở mang dân trí, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Chiến lược “trồng người” được Tiên sinh nói lên thật sáng tỏ.

Phần cuối, Nguyền Thiếp giãi bày lòng mình. Bài tấu nói về phép học là những lời “thành thật”, chứ không phải “lời nói vu vơ”, ông khiêm tốn và cung kính “cúi mong Hoàng thượng soi xét”.

Nguyễn Thiếp đức trọng tài cao, được người đương thời kính ái gọi là La Sơn phu tử. Tài năng của ông chưa kịp thi thố, thì vua Quang Trung băng hà. Ông đã từ chức và lui về núi cũ rừng xưa, ở ẩn. Ông đã qua đời năm 81 tuổi, thanh bạch và thanh cao. Bài tấu “Bàn luận về phép học” với những ý kiến của Tiên sinh về mục đích học tập, phương pháp học tập rất đúng đắn tiến hộ. về nội dung học tập, ý kiến của Tiên sinh chưa vượt qua được hạn chế của lịch sử và thời đại. Có điều, nhiệt tâm của La Sơn phu tử đối với nước với dân, đối với sự nghiệp trồng người đã để lại biết bao sự tôn kính, ngưỡng mộ cho hậu thế.

Phân tích bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp – mẫu 3

Đối với mỗi con người chúng ta việc học vô cùng quan trọng. Học giúp chúng ta tiếp thu thêm kiến thức và tương lai trở nên rộng mở hơn. Bàn về vấn về ta không thể không nhắc đến bài luận về phép học của Nguyễn Thép. Trong bài này ông nêu rõ quan niệm của mình về mục đích học thực sự là đạo đức là tri thức, để góp phần hưng thịnh cho đất nước.

Đây là một phần trong bản tấu của Nguyễn thiếp gửi lên vua Quang Trung để nói lên quan điểm của mình. Đầu tiên chúng ta cần hiểu tấu là gì? Tấu là một loại văn bản của quan lại hoặc thần dân để trình bày một ý kiến về chính sách cai trị hoặc vấn đề quan trọng của quốc gia. Mở đầu đoạn trích tác giả dùng câu châm ngôn để thấy mục đích chân chính của việc học “ Ngọc không mài không thành đồ vật, người không học không biết rõ đạo” Thông qua câu nói này tác giả muốn nói lên mục đích học tập. Một viên ngọc không được mài giũa, không được trải qua quá trình tạo lắn thì mãi vẫn chỉ là một viên ngọc không có công dụng, chỉ làm đồ trang trí và giá trị của nó không được cao. Cũng giống như con người không được trải qua quá trình rèn luyện học tập để trở thành người có đạo đức có tri thức giúp ích cho xã hội được. Học ở đây không chỉ tiếp thu kiến thức mà còn học cách làm người, học cách đối nhân xử thế, học để sống tốt.

Bởi con người quan trọng nhất là phải có đạo đức, người có tài mà không có đức thì sẽ không dùng được. Dưới thời phong kiến xưa theo Nho giáo, học hành thi cử chính là con đường dẫn đến chốn quan trường, là cơ hội để đấng nam nhi góp sức mình cho đất nước.học tập là quy luật trong cuộc sống. Đạo học ngày xưa lấy đạo đức làm chính, đó là những cư xử trong tam cương ngũ thường ngày xưa. Tác giả dùng mục đích cao cả của việc học để soi vào thực tế, từ đó phê phán những biểu hiện lệch lạc sai trái trong xã hội đương thời gây tác hại to lớn cho quốc gia dân tộc. Ông nêu lên nền học chính truyền của ta đã bị mất thay vào đó và lối học, hòng mau danh lợi. Như vậy chúa tầm thường mà thần nịnh hót thì việc nước mất nhà tan là đương nhiên.

Học mà không hiểu nội dung là gì chỉ chăm chăm chú ý đến việc nhận được bổng lộc sau khi làm quan. Không tiếp thu được kiến thức lại còn đạo đức cũng không được. Vậy những con người như vậy làm quan thì đất nước ngày càng đi xuống chúng trở thành những con sâu mọt đi đục khoét của cải để hưởng vinh hoa phú quý. Ngày nay chúng ta gọi đó là học vẹt, học chỉ để đi thi chứ không nhớ gì. Thật lãng phí thời gian và tiền bạc. Một đất nước mà mà toàn những con người học như vậy thì sẽ ngày càng đi xuống và trì trệ, không có bước phát triển. Chúng ta cần phải thay đổi cách học. Tiếp theo Nguyễn Thiếp bàn về phương pháp và nội dung học tập. Ông xin vua Quang Trung mở rộng việc học trở nên rộng rãi, mở thêm trường lớp dạy học. Làm thế nào mà mọi việc đều có ý thức học và học ở bất cứ đâu “Thầy trò của các phủ huyện, trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà học”.

Nguyễn Thiếp quả là người có tầm nhìn xa trông rộng, quan điểm của ông được nêu ra sau hai thế kỉ nhưng nó rất gắn liền chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Chúng ta đang áp dụng ý tưởng của ông vào thực tế. Về trình tự học thì theo ông ta phải học từ thấp đến cao từ nhỏ đến lớn, phải biết được những chữ cái trong bảng thì mới mong ghép lại được với nhau “ lúc đầu học tiểu học để bồi làm gốc. Tuần tự rồi học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.” Có thể nói muốn học rộng biết sâu trước tiên chúng ta cần phải học cái căn bản làm gốc rễ thì sau này mới có thể ở mang tầm kiến thức của mình một cách tốt nhất, giúp ích được cho đất nước. Còn nếu như không cái căn bản làm nền tảng mà muốn mở rộng kiến thức thì rất khó và nó sẽ sai lệch đi rất nhiều bởi nó không có gốc thì làm sao mà có ngọn.

Qua đây ta có thể thấy được tầm hiểu biết của ông vô cùng rộng lớn, bởi ông có những cái nhìn và quan niệm vô cùng đúng đắn về việc học.. Bác hồ cũng đã dạy: học để hành, học với hành phải phải đi đôi: học mà không hành thì vô ích, hành mà không học thì hành không trôi. Vậy học là gì, hành là gì. Học là quá trình tiếp thu kiến thức được đúc kết từ hàng ngàn năm trước. Chúng ta ở trường được học qua thầy cô, bạn bè. học qua sách vở, đài, báo internet. Học còn làm giàu kiến thức mở mang tầm hiểu biết giúp chúng ta biết nhiều hơn về mọi mặt của cuộc sống giúp công việc trở nên thuận lợi và tốt đẹp hơn. Hành là quá trình trình vận dụng kiến thức vào thực tế. Giống như người bác sỹ trải qua quá trình học tập tiếp thu kiến thức 6, 7 năm để sau khi ra trường dùng kiến thức của mình chữa bệnh cho bệnh nhân, hay như người công nhân vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình để tạo ra sản phẩm tốt hơn,….

Xem thêm bài viết hay:  Kể một việc làm tốt góp phần xây dựng quê hương, đất nước (Dàn ý - 8 mẫu) - Tập làm văn lớp 5

Rất nhiều những con người đang ngày ngày vận dụng kiến thức của mình vào thực tế. Nguyễn Thiếp khẳng định “ học để hành, nghĩa là học để hành tốt hơn. Trên thực tế thì học rất quan trọng tuy nhiên thì nếu ta học những kiến thức quá cao siêu mà không biết đem ra vận dụng thì việc học ấy trở nên tốn thời gian, tốn tiền của mà không có kết quả thì. Ngược lại hành mà không học thì cũng rất khó. Nếu ta chỉ làm theo thói quen và dựa vào kinh nghiệm của mình thì sẽ không đem lại hiệu quả cao và chậm. Và nó chỉ phù hợp với những công việc đơn giản nhẹ nhàng không cần dùng đến đầu óc trí tuệ, còn những công việc khoa học kỹ thuật cần những kiến thức chuyên môn thì kinh nghiệm không thì không đủ cần phải được học kiến thức.

Nguyễn Thiếp khi bày tỏ kiến của mình với vua luôn chân thành, khiêm tốn dùng những từ như: cầu xin, xin chớ bỏ qua,…” đồng thời thể hiện ông cũng thể hiện niềm tin của mình vào những điều được tấu. Cuối cùng tác giả khẳng định vai trò to lớn và lâu dài của việc học. Họa may kể nhân tài mới lập được công, nhờ thế nhà nước mới vững yên. Đó là mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua. Đạo học thành thì người tốt nhiều, mà người tốt nhiều thì đạo học chân chính sẽ có sức mạnh. Nếu nói theo cách hiểu hôm nay của chúng ta thì đạo học chân chính sẽ có thể thay đổi được con người, xã hội và giúp ích được đất nước.

Thông qua bài tấu của tác giả chúng ta đã học được nhiều điều về phương pháp học đúng đắn, học sao cho đúng cho phù hợp đừng lãng phí thời gian và tiền bạc của mình. Đừng học theo kiểu học vẹt, học đối phó, học là để cho mình chứ đừng lười biếng xem nhẹ việc học.

Phân tích bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp – mẫu 4

   Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh.

   Nguyễn Thiếp là người “thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”, từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học. chính vì gắn bó với công việc dạy học cho nên Nguyễn Thiếp hiểu ra mục đích thật sự của việc học. Có thể nói bài bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp không chỉ để lại cho những người thời địa ấy những bài học quý giá mà còn để lại cho chúng ta những người thế hệ ngày nay và mai sau.

   Bàn luận về phép học là một phần trong bản tấu của Nguyễn Thiếp gửi cho vua Quang Trung. Trong bài này tác giả của chúng ta đã nêu rõ quan điểm của mình về mục đích thật sự của việc học đó là đạo đức, là tri thức, để góp phần hưng thịnh cho đất nước.

   Trước hết chúng ta hãy cùng nhau đi tìm hiểu về thể loại tấu trong văn học Việt Nam. Tấu là một loại văn bản của quan lại hoặc của thần dân trình lên vua chúa để trình bày một ý kiến, đề nghị nào đó có liên quan đến chính sách cai trị hoặc các vấn đề quan trọng của triều đình, quốc gia. Cùng dạng với loại văn bản này còn có nghị, biểu, khải, sớ… Tấu có thể được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, theo hình thức văn xuôi hay văn biền ngẫu.

   Mở đầu đoạn trích tác giả nêu lên câu châm ngôn để cho thấy được mục đích chân chính của việc học là gì “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học”. Theo đó chúng ta sẽ đi tìm hiểu hai luận điểm chính là bàn luận về mục đích của việc học và tác dụng của việc học.

   Với mục đích của việc học tác giả đưa ra câu nói trên. Đó là cách so sánh vô cùng hay và hấp dẫn. việc học giống như là mài ngọc thành đồ vật vậy, con người không học thì cũng không thể thành người được. Đó là cả một quá trình dài đầy gian khổ và thách thức nhưng mục đích chính mà việc học đặt ra là để hoàn thiện con người. Sự hoàn thiện đó bao gồm trước hết là đạo đức và sau đó là tri thức. Việc học vốn mang một ý nghĩa cao quý : “Biết rõ đạo”. Tức là học để biết cách làm người, học để sống tốt, cư xử đúng chuẩn mực. “Ngọc không mài, không thành đồ vật”, con người không học hành, tu dưỡng thì chẳng thành được con người có khả năng làm việc tốt, giúp ích cho đời. Dưới thể chế phong kiến theo Nho giáo xưa, học hành, thi cử còn là con đường trực tiếp dẫn đến chốn quan trường, là cơ hội để một đấng nam nhi góp sức mình cho đất nước. như vậy co thể thấy việc học rất quan trọng đặc biệt là trong xã hội phong kiến xưa. Học tập là một quy luật tất yếu trong cuộc sống. Kẻ đi học là học luân thường đạo lí để làm người. Đạo học ngày trước lấy rèn luyện đạo đức làm chính, đó là những cách cư sử trong tam cương ngũ thường ngày xưa.

   Chính vì thế tác giả nhấn mạnh vào việc học là rất cần thiết. Con người mà không học thì giống như ngọc không mai không thành đồ vật và không thể thành người hoàn thiện được. những truyền thống quý báu như Tiên học lễ hậu học văn được kế thừa từ những bàn luận của Nguyễn Thiếp.

   Đặc biệt tác giả đã lấy việc học để chứng minh trong thực tế, từ đó nêu lên những sai trái tiêu cực trong đường lối giáo dục đương thời sẽ gây ra những hậu to lớn cho toàn dân tộc. tác giả nêu lên nền học chính của chúng ta đã bị mất từ lâu thay vào đó là lối học mau hòng danh hợi. Như vậy thì chúa tầm thường mà thần thì nịnh hót, nước mất nhà tan là lẽ đương nhiên. Học mà chỉ chú ý đến bổng lộc không chú ý đến nội dung của cái mình đang học thì làm sao có thể tiếp thu được những kiến thức trong nội dung ấy. Học chỉ biết để hưởng vinh hoa phú quý ra làm quan chứ không quan tâm đến nội dung thì đó là sai lệch. Nhưng đó lạ chính là thực trạng của nền giáo dục đương thời. Những kẻ học hành như vậy, nếu có ra làm quan thì cũng chỉ là những viên quan dốt nát, hỏi làm sao có thể lo đời giúp nước? Tác hại của lối học lệch lạc, sai trái đó gây tác hại nghiêm trọng và lâu dài vì những kẻ bất tài thường hay xu nịnh, luồn lọt để được thăng quan tiến chức, dần dần trở thành lũ sâu mọt, chỉ biết vinh thân phì gia mà quên đi lợi ích chung của đất nước, dân tộc. Và lối học ấy ngày nay ta gọi là học vẹt, học chỉ để đi thi, thi xong là quên hết chẳng có tác dụng gì.

   Không chỉ đưa mục đích chân chính cũng như tác dụng thực sự của việc học đối với hưng thịnh đất nước mà Nguyễn Thiếp còn khuyên vua Quang Trung mở hình thức học phổ biến hơn. Làm thế nào để tất cả mọi người đều ý thức được việc học và có thể học ở bất kì đâu : “Thầy trò của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”.

   Về trình tự học cũng như ta học chứ vậy, phải đi từ thấp tới cao từ nhỏ tới lớn. phải biết được những chữ cái có tỏng bảng thì mới mong học được thành những chữ ghép vào với nhau “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm”. Có thể hiểu rằng muốn học rộng thì trước tiên phải học được những cái cơ sở cái nền tảng thì mới có thể mong làm cho kiến thức của mình sâu rộng và giúp ích cho đất nước được. không những thế tác giả chỉ ra việc học và việc hanh phải đi đôi gắn kết với nhau, học trước rồi hành sau không thể bỏ được nếu muốn học thành tài.

   Cuối cùng tác giả khẳng định tác dụng to lớn và lâu dài của việc học đối với mỗi cá nhân và cho toan đất nước. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua. Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị. Phương pháp học tập tốt sẽ là tiền đề để tạo ra những người có đức có tài giúp cho đất nước hưng thịnh. Người học giỏi mà có đạo đức thì cũng góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.

   Như vậy có thể thấy Nguyễn Thiếp đã đem đến cho chúng ta một tầm hiểu biết mới về phép học. Mặc dù là bản tấu nhưng chúng ta cũng thấy được tác giả luôn giữ thái độ chân thành cung kính với vua Quang Trung chứ không phải lên mặt. qua đây chúng ta thấy Nguyễn Thiếp là một vị quân thần không những giỏi có tài mà còn có đức, biết đi trước thời đại bỏ qua những trào lưu học lấy bổng lộc để thấy rõ được những tác dụng chân chính của việc học. Đặc biệt sau bài này chung ta có thể áp dụng vào sự nghiệp học hành ngày nay.

Phân tích bài Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp – mẫu 5

Nguyễn Thiếp (1723 – 1804) tên chữ là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, được người đương thời gọi một cách kính trọng là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, ông là người “thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”, từng đỗ đạt và ra làm quan dưới triều Lê, nhưng sau đó vì bất bình nên cáo quan về nhà dạy học.

Sau khi lên ngôi vua, Nguyễn Huệ mấy lần viết thư, tha thiết mời Nguyễn Thiếp ra hợp tác với triều Tây Sơn nhưng vì nhiều lý do, ông chưa nhận lời. Ngày 10 tháng 7 niên hiệu Quang Trung năm thứ tư (1791), nhà vua lại viết chiếu thư mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân hội kiến vì quốc sự có nhiều điều cần bàn nghị. Lần này, La Sơn Phu Tử bằng lòng, ông làm bài tấu nêu ý kiến của mình về ba việc lớn mà bậc quân vương nên làm. Một là bàn về Quân đức (đạo đức của vua): Mong bậc đế vương một lòng tu đức lấy sự học vấn mà tăng thêm tài, bởi sự học mà có đức. Hai là bàn về Dân tâm (lòng dân) : Dân là gốc, gốc vững, nước mới yên. Ba là bàn về Học pháp (phép học). Đoạn trích này là phần thứ ba của bài tấu, nội dung bàn luận về phương pháp học tập. Qua bài tấu dâng lên vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp bày tỏ sự quan tâm và chủ kiến của mình về việc chấn chỉnh sự nghiệp giáo dục của quốc gia.

Xem thêm bài viết hay:  14 Bài văn Tả một em bé đang tuổi tập nói, tập đi hay nhất

Trước hết, chúng ta nên hiểu sơ qua về thể loại tấu. Tấu là một loại văn bản của quan lại hoặc của thần dân trình lên vua chúa để trình bày một ý kiến, đề nghị nào đó có liên quan đến chính sách cai trị hoặc các vấn đề quan trọng của triều đình, quốc gia. Gần Giống với loại văn bản này còn có nghị, biểu, khải, sớ… Tấu có thể được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, theo hình thức văn xuôi hay văn biền ngẫu.

Ở bài tấu này, Nguyễn Thiếp trình bày quan điểm về phép học qua hai luận cứ: Bàn về mục đích của việc học và tác dụng của phép học.

Trong phần mở đầu, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nêu mục đích quan trọng của việc học bằng cách so sánh việc dạy người cũng giống như việc mài đá thành ngọc: Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo. Ông khẳng định chỉ có học tập thì con người mới trở nên hoàn thiện, tốt đẹp. Học tập là một quy luật tất yếu trong cuộc sống. Kẻ đi học là học luân thường đạo lý để làm người. Vậy đạo là gì? Tác giả giải thích: Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Đạo học ngày trước lấy mục đích rèn luyện đạo đức nhân cách là chính. Đó là đạo tam cương (tức là học để hiểu và giữ đúng quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng); đạo ngũ thường (tức là học để hiểu và để sống theo năm đức tính của con người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Nói cụ thể ra thì lẽ đối xử chính là mối quan hệ giao tiếp giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng.

Chính vì thế, Nguyễn Thiếp nhấn mạnh rằng tất cả những điều cần thiết trong cuộc sống đều phải học. Con người không được giáo dục cũng giống như ngọc không mài không sáng: Ngọc bất trắc, bất thành khí.

Tác giả đã dùng câu châm ngôn dễ hiểu để tăng thêm sức mạnh thuyết phục của lí lẽ. Khái niệm đạo vốn trừu tượng, khó hiểu được tác giả giải thích thật ngắn gọn, rõ ràng. Như vậy, mục đích tối thượng của việc học là để làm người.

Quan điểm ấy đề cao mục đích giáo dục đạo đức của việc học. Khẩu hiệu Tiên học lễ, hậu học văn trong nhà trường hôm nay cũng là sự tiếp nối và phát huy mục đích ấy. Điểm cần bổ sung thêm là việc học không chỉ rèn luyện đạo đức mà còn rèn luyện năng lực trí tuệ để con người có sức mạnh xây dựng, cải tạo xã hội trên mọi lĩnh vực văn hóa, kinh tế, khoa học kĩ thuật…

Tác giả lấy mục đích cao cả của việc học để soi chiếu vào thực tế; từ đó phê phán những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong đường lối giáo dục đương thời đã gây ra những tác hại to lớn cho quốc gia, dân tộc:

Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường. Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.

Vậy thế nào là lối học hình thức hòng cầu danh lợi ? Đó là lối học theo kiểu tầm chương trích cú, thuộc lòng từng câu từng chữ mà không hiểu kĩ về nội dung, học theo kiểu hữu danh vô thực. Học chỉ để đi thi, để ra làm quan, được trọng vọng, nhàn nhã và thu nhiều bổng lộc…

Những kẻ học hành như vậy, nếu có ra làm quan thì cũng chỉ là những viên quan dốt nát, hỏi làm sao có thể lo đời giúp nước? Tác hại của lối học lệch lạc, sai trái đó gây tác hại nghiêm trọng và lâu dài vì những kẻ bất tài thường hay xu nịnh, luồn lọt để được thăng quan tiến chức, dần dần trở thành lũ sâu mọt, chỉ biết vinh thân phì gia mà quên đi lợi ích chung của đất nước, dân tộc.

Ngày nay, chúng ta gọi lối học đó là học vẹt, học để đối phó, thực chất chẳng tiếp thu được bao nhiêu Kiến thức. Thuộc bài là yếu tố rất cần trong học tập nhưng điều cốt yếu là phải hiểu nội dung, bản chất của vấn đề, từ đó có cách suy nghĩ, cách cảm nhận, sáng tạo riêng.

Sau khi phê phán những biểu hiện tiêu cực trong nhận thức về việc học, Nguyễn Thiếp đã nêu ra quan điểm và phương pháp học tập đúng đắn.

Theo ông, trước tiên việc học phải được phổ biến rộng rãi. Triều đình nên cho dựng thêm trường lớp ở khắp nơi, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người học tập:

Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học.

Nguyễn Thiếp quả là một bậc hiền tài có tầm nhìn xa trông rộng. Quan điểm hết sức tiến bộ của ông tuy nêu ra cách đây đã hai thế kỉ nhưng nó rất gần gũi với chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Chúng ta đang áp dụng ý tưởng sáng suốt của ông vào thực tế giáo dục.

Theo Nguyễn Thiếp, việc học phải được bắt đầu từ những kiến thức có tính chất nền tảng. Học từ dễ đến khó. Khi học bài, người học phải biết tóm tắt nội dung để dễ nhớ, dễ thuộc, bây giờ ta gọi là làm dàn bài và củng cố kiến thức:

Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.

Mục đích của việc học là để trở thành người có đức, có tài, góp phần hữu ích vào sự nghiệp hưng thịnh đất nước. Muốn học tốt thì phải có phương pháp. Sự học cần phải nâng cao, mở rộng không ngừng, cho nên người học phải biết cách học sao cho có hiệu quả; đặc biệt là học phải đi đôi với hành.

Phương pháp học tập đúng đắn là tuần tự học từ thấp đến cao. Học rộng, nghĩ sâu, rồi tóm lược gọn những điều cơ bản, cốt yếu nhất, rồi ghi nhớ và theo điều học mà làm. Như vậy học không chỉ để cho biết mà chủ yếu là để làm theo cho tốt.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Học để hành, học với hành phải đi đôi: Học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy.

Vậy học là gì? Hành là gì?

Học là hoạt động tiếp thu tri thức của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô; học ở bạn bè; tự học qua sách vở và thực tế đời sống. Học để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt để có thể làm chủ bản thân, làm chủ công việc, góp phần hữu ích vào việc xây dựng sự nghiệp riêng và sự nghiệp chung.

Hành là quá trình vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế công việc hằng ngày. Ví dụ như người thầy thuốc đem những kiến thức tiếp thu được trong suốt quá trình học tập sáu, bảy năm trời ở trường Đại học để chữa bệnh cho nhân dân. Những kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng thiết kế và thi công bao công trình như nhà máy, bệnh viện, trường học, công viên… để phục vụ đời sống con người. Người công nhân trong xưởng máy vận dụng lý thuyết và kinh nghiệm để cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Người nông dân áp dụng hiểu biết khoa học vào trồng trọt chăn nuôi để có được những vụ mùa bội thu trên đồng ruộng. Đó là hành.

Nguyễn Thiếp khẳng định : Học để hành, có nghĩa là học để làm cho tốt. Thực tế cho thấy có học có hơn. Ông cha chúng ta ngày xưa đã dạy: Bất học, bất tri lý. (Không học thì không biết đâu là lẽ phải). Có học mọi công việc sẽ đạt hiệu quả cao hơn, tốt hơn. Nếu được học những lý thuyết cao siêu mà không biết đem ra vận dụng vào thực tế thì việc học ấy chỉ tốn thời gian, công sức, tiền bạc mà chẳng đem lại kết quả gì.

Ngược lại, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Nếu ta chỉ làm việc theo thói quen, theo kinh nghiệm mà không có lý thuyết soi sáng thì công việc sẽ tiến triển rất chậm và chất lượng không cao. Cách làm việc đơn thuần ấy chỉ thích hợp với những công việc chân tay giản đơn, không cần nhiều đến trí tuệ. Còn đối với những công việc phức tạp đòi hỏi khoa học, kĩ thuật thì cung cách ấy đã quá lỗi thời. Cho nên muốn đạt hiệu quả tốt trong công việc, chúng ta bắt buộc phải học, phải được đào tạo chính quy theo từng chuyên ngành và sau đó, trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập không ngừng bằng mọi cách. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời đại.

Trong khi đề xuất ý kiến của mình với nhà vua, Nguyễn Thiếp luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn qua những từ ngữ như cúi xin, xin chớ bỏ qua… đồng thời, ông cũng thể hiện niềm tin của mình vào sự đúng đắn của những điều tấu trình và vào sự chấp thuận của nhà vua.

Cuối cùng, Nguyễn Thiếp khẳng định tác dụng to lớn và lâu dài của việc học:

Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.

Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị.

Phương pháp học tập tốt sẽ là cơ sở để đào tạo ra người tài đức. Nhiều người có tài có đức sẽ góp phần không nhỏ vào việc hưng thịnh đất nước.

Phép học chân chính mà thành công thì sẽ không còn lối học hình thức hòng cầu danh lợi cá nhân, không còn hiện tượng chúa tầm thường, thần nịnh hót.

Nhiều người học giỏi lại có đạo đức tốt, đỗ đạt làm quan sẽ làm cho triều đình ngay ngắn, xã hội trong sạch. Việc cai trị quốc gia của nhà vua sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn, nước nhà sẽ vững vàng, bình ổn.

Nếu nói theo cách hiểu hôm nay của chúng ta thì đạo học chân chính sẽ có sức mạnh cải tạo con người, cải tạo xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng tích cực.

Đằng sau các lí lẽ bàn về tác dụng của phép học, Nguyễn Thiếp đã đề cao tác dụng của phương pháp học tập đúng đắn, tin tưởng ở sự phục hưng của sự nghiệp giáo dục chân chính, kỳ vọng về tương lai tươi sáng của đất nước.

Ý kiến của Nguyễn Thiếp trùng hợp với ý kiến của nhà bác học Lê Quý Đôn: Nhân tài là nguyên khí quốc gia. Đất nước nhiều nhân tài thì chế độ vững mạnh, quốc gia hưng thịnh.

Nguyễn Thiếp nêu rõ mục đích, tác dụng của việc học là để làm người, học để nâng cao hiểu biết và làm việc ngày một tốt hơn; đóng góp được nhiều hơn cho đất nước. Nếu mọi người hiểu được điều đó thì sẽ nhận ra tác hại ghê gớm của lối học hình thức hòng cầu danh lợi.