Đánh giá cảm nhận nhàn học sinh giỏi

Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Bài do học sinh giỏi được điểm 8)

Bài làm:

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Văn học Trung Đại Việt Nam. Ông là một bậc ẩn sĩ thanh cao, luôn vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi để vươn đến một lối sống vui thú với lao động, hòa hợp với thiên nhiên. Bài thơ “Nhàn” đã thể hiện rõ ràng triết lý nhân sinh quan của nhà thơ.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đề từ rất mộc mạc như chính con người của tác giả:

Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Với phép lăp từ "một"-"một" đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị nơi quê nghèo. Nhưng dù một mình nhưng tác giả không hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ.  Hình ảnh nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn đang vui thú điền viên là câu cá và làm vườn. Có thể nói đây là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phòng kiến ngày xưa nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này.

Đánh giá cảm nhận nhàn học sinh giỏi

Hình ảnh lão nông chi điền giản dị. 

Đến hai câu thơ thực tiếp theo, tác giả càng khắc họa rõ nét hơn chân dung của "lão nông chi điền” Nguyễn Bỉnh Khiêm".

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

 

Hai câu thơ có thể được xem là tuyên ngôn sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ông tự nhận mình là kẻ "dại" chỉ thích tìm nơi vắng vẻ đến sống. Tác giả đã rất khéo léo trong việc dùng từ ngữ độc đáo, lột tả được hết phong thái ung dụng tự tại của ông. Với những người chọn chốn quan trường là những người "khôn".  Một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, chê mà cũng có thể là khen mình.

Hai câu thơ luận tiếp theo đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao hàng ngày của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Chỉ trong hai câu thơ ngắn gọn đã có thể miêu tả tất cả cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của "lão nông nghèo". Mùa nào thức ăn đấy tuy không có sơn hào hải vị  để ăn nhưng đều là những đặc sản mang hương vị quê nhà. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Đặc biệt sang câu thơ "Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao" đã phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên tâm giao hòa hợp nhau.

Đến hai câu thơ cuối dường như tác giả đã đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của mình:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Đây là sự đúc rút triết lý sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa và có trí lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Với con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý cũng chỉ như hư vô mà thôi. Cách so sánh độc đáo này đã mang đến cho bài thơ một tứ thơ hoàn hảo nhất.

Bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước và coi nhẹ phú quý danh vọng thì ông là một tấm gương đáng học hỏi. Với kết cấu đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Comments

comments

Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Văn

Đề:  Nói về tài năng thơ, Ra- xun Gam-za-tốp cho rằng: “Giống như ngọn lửa bùng lên từ những cây củi khô, tài năng cũng được nuôi dưỡng bằng những tình cảm mạnh mẽ của con người”. Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên? Tự chọn phân tích một bài thơ để làm sáng tỏ.

          Bài làm của em Trần Thị Đinh Huệ, học sinh lớp 11 chuyên văn trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, Phú Yên (Năm 2017)

BÀI LÀM

Này là gió thổi khúc tình ca khẽ lay động những bông cúc dại đang nằm ủ rủ bên vệ đường vươn mình đón cái vuốt ve ngọt ngào của gió. Này là bầu trời nhẹ nhàng lững lờ để lộ những đám mây ánh hồng trong ánh nắng hoàng hôn. Này là những giọt nước mắt thoát ra từ trang sách vào cuộc đời để gột rửa bao cằn khô sỏi đá để làm mát lòng nhân thế, để những điệu hồn khe khẽ trở mình như những bong bóng mưa len lỏi trên khắp lối về. Có phải vậy không mà hàng ngàn năm nay văn chương cuộn mình trong biết bao nguồn cảm xúc dạt dào, cuộn mình trong cái dòng nóng hổi của tình yêu, tình người nồng thắm. Bao quan niệm độc đáo về văn chương, nghệ thuật được đưa ra. Từ Biêlinxki đến Sêchxpia, VictoHuygo và giờ đây Raxun Gamzatốp đã góp thêm một tiếng nói để hoàn thành những mảnh ghép độc đáo về nghệ thuật: “Giống như ngọn lửa bùng lên từ những cành củi khô, tài năng cũng được nuôi dưỡng bằng những tình cảm mạnh mẽ của con người”

Từ khi sinh ra, văn học đã đến với con người qua giọng ru ngọt ngào tha thiết của mẹ, qua tiếng thơ êm dịu của bà. Men ngọt ngào của những vần thơ ấy đã khẽ chạm vào trái tim con người rung lên những tình cảm tha thiết. Không phải ngẫu nhiên mà Gamzatốp đã mượn hình ảnh những cây củi khô để nói về tài năng của người nghệ sĩ. “Cành củi khô” đó là chất liệu, là sự chuẩn bị sẵn sàng cho sự bùng cháy của ngọn lửa lớn, cho sự bừng sáng của những ánh háo quang. Củi khô cũng giống như trái tim của con người vậy, khi đã đủ đầy, khi đã thăng hoa như những mầm non càng đầy nhựa sống thì thất yếu nó sẽ vỡ ra và tung lên những vần thơ cháy bỏng, đắm say. Nếu gió có thể lưu chuyển những đám mây, sông chuyên chở những giọt nước đi ra biển lớn thì cảm xúc đưa trái tim người nghệ sĩ đạt đến mức cực điểm để chuyển hóa thành thơ. Tình cảm càng nồng thì tác phẩm càng hay, cảm xúc càng thăng hoa thì tác phẩm càng thành công. Phải thấu hiểu được qui luật ấy thì người nghệ sĩ mới làm nên tác phẩm xuất sắc cho đời.

Thơ ca phản ánh đời sống. Đời sống chính là chất liệu sơ khai để làm nên một tác phẩm. Nhà thơ như con ong lặn sâu vào cuộc đời để hút cho mình những giọt mật tinh túy nhất để làm đẹp cho nghệ thuật. Nhưng thơ sẽ chết nếu nhà thơ chỉ miêu tả cuộc sống để mà miêu tả, người nghệ sĩ phải gửi vào đó tiếng lòng, tiếng nói tha thiết của mình. Nhà thơ có thể miêu tả vẻ đẹp của một đám mây, một dòng sông, một bức tranh nhưng điều mà nghệ thuật quan tâm là đằng sau ấy người ta tìm thấy tiếng nói, cảm xúc, nỗi lòng của tác giả. Sẽ ra sao khi tác phẩm ấy chỉ là những con chữ nằm thẳng đỏ trên trang giấy? Sẽ ra sao khi văn học chỉ là sự copy cuộc sống một cách máy móc? Khi ấy liệu người đọc có còn thích thú ngâm lên những vần thơ nữa hay không.

Đặc biệt, bản chất của thơ ca là thể hiện đời sống nội tâm của con người. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Tố Hữu từng viết rằng: “Thơ là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”. Tiếng thơ là tiếng lòng, là tiếng nói của lương tri và tình cảm của con người.Bởi vậy tình cảm trong thơ phải là những tính cảm chân thành, sâu sắc, mãnh liệt nhất.Sự hời hợt, nhạt nhẽo, khiên cưỡng sẽ không thể thành thơ. Đọc thơ mà không xúc động, không day dứt, không ám ảnh thì coi như tác giả đã thất bại. Ý kiến của Gamzatốp đã nêu lên yêu cầu của việc sáng tác thơ ca là phải luôn để trái tim mình giữa cõi đời bao la rộng lớn với những rung cảm sâu xa.

Thơ ca là chiếc nôi nâng giấc của con người, là thứ thuốc càng ngày ngấm càng ngọt đưa con người vào những phút giây êm đềm. Ta giật mình trước cái da diết, khắc khoải đến đau đớn của Hàn Mặc Tử. Ta lặng lẻ trở về một buổi chiều u buồn trong trang thơ Huy Cận.Và đặc biệt ta như sống lại cái mạnh mẽ trào sôi trong “Vội vàng” của Xuân Diệu. Tác phẩm đã để thương để nhớ trong trái tim của biết bao người về những dòng cảm xúc dạt dào, bồng bột có lúc đã thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thi ca dạt dào sức sống. Nhưng hơn hết “Vội vàng” cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lối sống, về cái tôi thật táo bạo của nhà thơ.

Mở đầu bài thơ là một khổ thơ ngụ ngôn thể hiện ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là ước muốn đảo lộn qui luật tự nhiên:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Nói Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” quả không sai! Nếu như trong thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa thiên đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi gió trăng mây hoa thì theo Xuân Diệu cuộc sống gió trần gian mới là nơi đẹp nhất và căng mọng nhựa sống nhất. Thơ ông luôn có một niềm say mê cảnh sắc trần gian, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mảnh liệt. Nhà thơ muốn tắt nắng, buộc gió để giữ mãi hương sắc của đất trời. Lòng ham muốn lạ lùng ấy đã hé mở cho ta một lòng yêu bồng bột nhưng mãnh liệt, đắm say đối với cái thế giới thắm sắc đượm hương này. Ước muốn đóng băng thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ, đảo ngược qui luật tự nhiên để giữ mãi vẻ đẹp của cuộc đời.

Mở ra trong “Vội vàng” là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Xuân Diệu đưa người đọc vào một chốn non nước tuyệt vời; diễn tả nó bằng một tình cảm, cảm xúc nồng nàn, mãnh liệt

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến oanh này đây khúc tình si”

Cùng thời, nếu như Thế Lữ tìm lên chốn bồng lai tiên cảnh, với chị Hằng, thỏ ngọc với “tiên nga xõa tóc bên nguồn” thì Xuân Diệu chính là người đã “đốt cảnh bồng lai” xua ai nấy về hạ giới. Lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đã khiến tâm hồn thi sĩ bám chặt cuộc sống trần thế, không thoát li như các nhà thơ khác mà nói như Thế Lữ: “Lầu thơ của ông được xây dựng trêt đất của một tấm lòng trần gian”. Nhà thơ đã phát hiện cả một thiên đường trên mặt đất này, tươi đẹp đến từng centimet. Đó là bức tranh thêu mà trong mỗi đường chỉ là một sự dụng công vô cùng khéo léo tinh tế và sắc sảo. “Tuần tháng mật” của đôi vợ chồng đắm say trở thành mùa của ong bướm dập dìu. “Cành tơ” thì “phơ phất”. Từ láy “phơ phất” diễn tả được bước đi đầu xuân, mềm mại, nhẹ nhàng, trẻ trung trước gió. Và trong bức tranh đó không thể thiếu tiếng hót của chim yến oanh, tiếng hót hút hồn của biết bao con người yêu cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống đang ngồn ngột phơi bày thiên nhiên hữu tình xinh đẹp, đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến kì lạ, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những món ăn có sẵn. Điệp ngữ “này đây” được sử dụng năm lần kết hợp với lối liệt kê khiến nhịp thơ trở nên tươi vui, dồn dập tựa như một tiếng réo vui ngây ngất, trầm trồ. Cảnh vật trong thơ ông trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Thi pháp hiện đại đã chấp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cảnh đẹp mùa xuân.

Thơ xưa lấy thiên nhiên làm chuẩn mực để miêu tả cái đẹp của con người: “Phù dung như diện liễu như mi”. Xuân Diệu đưa ra một chuẩn mực khác, lấy con người giữa tuổi yêu đương để miêu tả thiên nhiên. Ấy mới là tiêu chuẩn cho mọi vẻ đẹp trên thế gian này. Con người là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ, vẻ đẹp của con người trần thế là tác phẩm kì diệu nhất. Nói như Shakespeare: “ Con người là biểu mẫu của muôn loài”. Tư tưởng mỹ học ấy đã giúp nhà thơ sáng tạo nên một câu thơ vào loại tuyệt diệu của nền thi ca Việt Nam hiện đại “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

1. Full tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi môn Văn

2. Khóa học Online điểm 8+ môn Văn

Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn của nhà thơ bỗng trỗi dậy nỗi lo âu trước cái mong manh, chóng vánh của cuộc đời. Thi nhân chợt nhận ra qui luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian “tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn”. Hai tâm trạng trái ngược, nhưng dồn nén trong một câu thơ “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa”. Về hình thức đây là một cấu trúc đặc biệt bởi nó ngắt thành hai câu chứa đựng hai tâm trạng, hai cảm xúc hoàn toàn trái ngược sung sướng – vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả ở đây là “vội vàng một nửa”. Thường thì con người ở tuổi trung niên mới nuối tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân mà đã tiếc nuối, đã vội vàng “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Vì sao vậy? Vì Xuân Diệu hiểu rằng:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

                              Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

 Mà xuân hết nghĩa là tình tôi cũng mất

               Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

                                 ….

               Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

               Khắp sông núi vẩn than thầm tiễn biệt

               Con gió xinh thì thào trong gió biếc

               Phải chăng hờn vì nổi phải bay đi”

Quan niệm của Xuân Diệu vừa quen vừa lạ. Quen vì người xưa đã từng nói rằng “xuất bất tài lai”.Và lạ bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân tình yêu và tuổi trẻ là tất cả của sự sống. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại “nên thi sĩ bâng khuâng tiếc nuối”, rồi chìm vào một nỗi cô đơn, sầu tủi, miên man.  Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy vô hình mà mỗi khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá, tâm hồn nhà thơ tinh tế quá để cảm thấy xót xa trước bước đi của thời gian. Vì thế mà nhà thơ chọn cho mình quan niệm sống “Vội vàng” như một cách đối phó với thời gian.  Trong đoạn thơ tiếp theo, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời “Thơ thơ” được thể hiện đầy đủ nhất. Từng làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi vào tâm hồn người đọc tiếp tục bắt gặp cái “tôi” đầy táo bạo của nhà thơ hòa trong cái “ta” rộng lớn:

“Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn siết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Và non nước và cây và cỏ rạng

Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ “ta muốn ôm” như mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay ôm hết tất cả sự sống lúc xuân thì. Điệp ngữ “ta muốn” được điệp lặp lại bốn lần, một lần đi với một động từ diễn tả tình yêu càng lúc càng mãnh liệt hơn: “ôm, riết, say, thâu,hôn, cắn” đã thể hiện một khát khao tận hưởng đến cháy bỏng, nồng nàn. Câu thơ “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” là là đỉnh điểm của cảm xúc. Dường như đối với tác giả, mùa xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng khiến nhà thơ say mê muốn cắn vào nó. Khát khao giao cảm của nhà thơ mãnh liệt đến mức không có giới hạn.

Với bài thơ “Vội Vàng”, Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam những âm điệu mới lạ bằng chính cảm xúc tha thiết, mãnh liệt. Chính cảm xúc từ trái tim đã đưa thơ Xuân Diệu đi vào trái tim người đọc. Nếu không có những cảm xúc được thăng hoa đến mức tuyệt đỉnh ấy, chắc chắn tác phẩm của Xuân Diệu sẽ không say đắm, nồng nàn đến thế.

Gamzatốp đã khẳng định tầm quan trọng của cảm xúc, tình cảm trong thơ. Khởi nguồn của thơ là tình cảm và đích đến của nó củng chính là trái tim con người. Tình cảm càng mạnh liệt thơ càng nồng nàn, tha thiết. Nói như Tagore: “Cũng như nụ cười và nước mắt thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong”.

* Nhận xét của thầy Hồ Tấn Nguyên Minh

– Hiểu đề sâu sắc, kiến giải tốt vấn đề

– Lập luận chặt chẽ, logic; kiến văn sâu rộng.

– Cách viết hấp dẫn, giàu chất văn

Vui lòng ghi rõ nguồn từ thầy Phan Danh Hiếu và ghi tên học sinh làm bài này.

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Nhàn.

Bài làm

Cảm nhận về bài thơ Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam. Ông là người có học vấn uyên thâm, từng ra làm quan nhưng chán cảnh quan trường nhiều bất công thối nát nên đã từ quan về ẩn ẩn, sống một cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Những sáng tác của ông bao gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm, trong đó bài thơ Nhàn được rút ra từ tập Bạch Vân quốc ngữ thi, một trong hai tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ Nhàn được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, viết bằng chữ Nôm. Được sáng tác vào khoảng thời gian ông rút về ở ẩn. Bài thơ là tiếng lòng của nhà thơ về một cuộc sống nhiều niềm vui, có sự an nhàn, thảnh thơi. Có thể nói xuyên suốt bài thơ là một tâm hồn tràn ngập niềm vui, sự thanh tịnh trong chính con người tác giả.

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Câu thơ đầu bằng việc lặp lại số từ “một” để diễn tả cuộc sống dân dã của mình khi ở ẩn. Quan trường xô bồ, đen tối mà cuộc sống thì mệt mỏi trong sự ganh đua nhau, không biết nay sống mai chết mà lòng người thì đầy toan tính dối trá. Chính vì thế Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn nơi thôn dã để lánh đời. Đó là sự hưởng thụ thú vui tao nhã, Ông đã học tập những bậc hiền triết xưa, những vị quan trước kia như lời trong thơ ca cổ. Đó là nói đến con người là nói đến “Ngư, tiều, canh, mục” và nhà thơ cũng đã lựa chọn thú hưởng nhàn cao quý theo hình tượng con người tượng trưng trong thơ ca. Sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu là những vật dụng quen thuộc của những người lao động, người nông dân. Tác giả hiện lên như một lão nông dân bình dị, quen thuộc như bao người khác. Ông sống một cuộc sống trái ngược với cuộc sống trước kia, thảnh thơi, an nhàn. Sống lao động bằng chính đôi tay mình đó là cầm cuốc, cầm mai và thú vui tao nhã đó là câu cá, làm vườn. Có thể nói đây là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người trong thời kỳ phong kiến mà đặc biệt là những vị quan thanh liêm nhưng không được vua trọng dụng nhưng cũng không dứt khỏi chốn quan trường được.

Câu thơ thứ hai đã góp phần tạo nên nhịp điệu khoan thai, nhẹ nhàng cho người đọc: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Có thể mỗi người có một quan điểm sống khác nhau, mỗi người có một thú vui khác nhau nhưng đối với ông không quan trọng. Nhà thơ cho rằng ngoài kia người ta có thể vui vẻ với một thú vui có thể là giản dị, có thể là xa hoa nào đó nhưng với ông thì điều đó chẳng ảnh hưởng gì. Sống mặc kệ sự đời, bỏ qua những xa hoa, phù phiếm để “an phận” với cuộc sống với thú vui của mình trong hiện tại. Chính vì thế nên cuộc sống của ông khi đó được nhiều người ngưỡng mộ, mơ ước.

Từ đó cũng trở thành cơ sở để tác giả một lần nữa khẳng định quan niệm và thái độ sống của chính bản thân:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người không người đến chỗ lao xao”

Hai câu thơ tiếp chứa đựng một phép đối rất chỉnh nói lên sự khác biệt giữa “ta” với “người” hay của chính nhà thơ với những người khác. Có thể nhiều người cho rằng đang sống làm quan mà bỏ về làm lão nông chi điền là “dại” và ông cũng tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ để ở mà bỏ quan công danh, sự nghiệp. Tuy nhiên cái “dại” này khi người ta nhìn nhận rõ sẽ cảm thấy ghen tỵ và ngưỡng mộ. Trái lại ông coi những người còn ở lại trốn quan trường là những người “khôn” tuy khen mà trong đó bao hàm cái sự chê cười. Ông coi quan trường là cái “chốn lao xao” mà ông không hợp với nó từ đó đối lập với nơi vắng vẻ. Từ đó cho thấy một cốt cách thanh cao và một tâm hồn đáng ngưỡng mộ dám nghĩ, dám làm của tác giả.

Không chỉ dừng lại ở đó hai câu tiếp theo đã nói về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của nhà thơ khi sống ở vùng thôn dã:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

Chỉ bằng cặp thơ đã lột tả được hết thảy cuộc sống sinh hoạt thường ngày khi về ở ẩn của tác giả. Sánh với “Ngư, tiều, canh, mục” chính là “Xuân, hạ, thu đông”. Bốn mùa tạo nên một năm trọng vẹn mà mùa nào thức ấy, tuy không phải những sơn hào hải vị như khi còn ở quan trường nhưng lại khiến nhà thơ cảm thấy hài lòng. Cuối cùng tác giả còn đúc kết cốt cách thanh cao đó là:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Đây cũng chính là những triết lý của tác giả trong quãng thời gian ở ẩn. Đó là thái độ thờ ơ trước công danh, phú quý. Tất cả nó giống như một giấc chiêm bao để rồi khi tỉnh dậy sẽ tan biến vào hư vô

Qua bài thơ ta có thể thấy con người, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, một con người luôn hướng về “nơi vắng vẻ”, tránh xa nơi quan trường “lao xao”. Một người gần gũi với thiên nhiên, với cuộc sống của những người bình dân mà không ham vinh hoa, phú quý. Đây quả thật là một bậc đại tài đáng ngưỡng mộ khi dám nghĩ, dám làm trong thời đại xã hội phong kiến suy đồi, triều đình thối nát.

Mai Du

Rằm tháng Giêng là một trong những bài thơ viết về trăng hay nhất của Hồ Chí Minh, qua bài thơ độc giả không chỉ thấy bức tranh thiên nhiên lộng lẫy tuyệt bích dưới ánh trăng mà còn thấy được chân dung của Người- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Bằng những hiểu biết của mình sau khi học xong bài thơ Rằm tháng Giêng, em hãy trình bày cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng Giêng.

I. Dàn ý cho đề bài cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh

Mở bài cho đề cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh

– Giới thiệu về sự xuất hiện của hình ảnh trăng trong thơ.

– Dẫn dắt và giới thiệu bài thơ “Rằm tháng giêng”: không chỉ khắc họa bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng mà còn thể hiện thành công bức chân dung của Bác- một con người luôn có sự thống nhất giữa tâm hồn nghệ sĩ và người chiến sĩ cách mạng.

Thân bài cho đề cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh

-“Rằm tháng giêng” là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp vào đêm rằm mùa xuân

– Bầu trời về đêm vào ngày rằm tháng giêng được miêu tả trong vẻ đẹp thơ mộng của ánh trăng: “Rằm xuân lồng lộn trăng soi”.

– Điệp từ “xuân” được lặp lại khiến cho cảnh vật trở nên tràn đầy sức sống từ bầu trời đến dòng nước

-“Rằm tháng giêng” đã khắc họa thành công vẻ đẹp tâm hồn của Bác

– Con người hiện lên giữa bức tranh thiên nhiên tuyệt bích đó trong tư thế là ngươi chiến sĩ cách mạng.

– Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, tâm hồn người chiến sĩ rung động, cho thấy sự quyện hòa giữa tâm hồn người nghệ sĩ và người chiến sĩ cách mạng, tình yêu thiên nhiên quyện hòa cùng tình yêu đất nước.

-“Rằm tháng giêng” là bài thơ thể hiện niềm tin, niềm lạc quan cách mạng

Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền” trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo, đẹp đẽ biểu trưng cho niềm tin, niềm lạc quan cách mạng vào chiến thắng của nhân dân ta trong công cuộc kháng chiến.

3. Kết bài cho đề cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh

Khát quát những nét đặc sắc của bài thơ “Rằm tháng giêng“.

II. Bài tham khảo cho đề cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh

Thiên nhiên luôn là người bạn tri âm tri kỉ và là nguồn cảm hứng bất tận của người nghệ sĩ. Một trong những hình tượng thiên nhiên trong sáng, gần gũi thường xuất hiện trong thơ ca là ánh trăng. Đây cũng là một trong những hình ảnh quen thuộc trong thơ Bác- vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc. Bài thơ “Rằm tháng giêng” không chỉ khắc họa bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng mà còn thể hiện thành công bức chân dung của Bác- một con người luôn có sự thống nhất giữa tâm hồn nghệ sĩ và người chiến sĩ cách mạng.

“Rằm xuân lồng lộn trăng soi

Sông xuân lẫn với màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Bài thơ “Rằm tháng giêng” được sáng tác vào năm 1948, trong lúc Chủ Tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp để tổng kết tình hình của cuộc kháng chiến chống Pháp ở giai đoạn đầu. Bối cảnh ra đời gắn liền với sự kiện chính trị nhưng bài thơ lại thấm đẫm màu sắc lãng mạn, trữ tình. Bầu trời về đêm vào ngày rằm tháng giêng được miêu tả trong vẻ đẹp thơ mộng của ánh trăng. Đó là ánh trăng tròn đầy, đẹp đẽ tỏa ra sắc vàng dịu nhẹ bao trùm cảnh vật:

“Rằm xuân lồng lộn trăng soi

Sông xuân lẫn với màu trời thêm xuân”

Dưới ánh trăng, điệp từ “xuân” được lặp lại khiến cho cảnh vật trở nên tràn đầy sức sống từ bầu trời đến dòng nước. Không gian được mở ra ở biên độ của chiều rộng bầu trời và chiều sâu sông nước. Bầu trời cao rộng hóa thành bầu trời “trăng” và làn nước xanh thẳm cũng hóa thành sông trăng. Và trong không gian đó, hình ảnh con người hiện lên:

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Con người hiện lên giữa bức tranh thiên nhiên tuyệt bích đó trong tư thế là ngươi chiến sĩ cách mạng. Đặc biệt đó còn là công việc mang tầm vóc vĩ mô trong bối cảnh đất nước đang đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược. Nhưng rồi trước vẻ đẹp của thiên nhiên, tâm hồn người chiến sĩ rung động. Nhưng sự rung động đó không phải bởi vì Người sao nhãng việc quân mà thể hiện rõ hơn tinh thần yêu nước. Đối với Bác, tâm hồn chiến sĩ quyện hòa cùng tâm hồn nghệ sĩ, tình yêu thiên nhiên hòa vào tình yêu quê hương đất nước.

“Rằm tháng giêng” còn là bài ca về niềm tin lạc quan cách mạng. Trong lúc “bàn bạc việc quân”, Bác thả hồn mình hòa nhập cùng cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho con thuyền chở những người chiến sĩ cách mạng trở nên thơ mộng: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. “Trăng ngân đầy thuyền” vốn là một hình ảnh thực bỗng trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo, đẹp đẽ biểu trưng cho niềm tin, niềm lạc quan cách mạng vào chiến thắng của nhân dân ta trong công cuộc kháng chiến, đồng thời cho thấy phong thái ung dung, lạc quan của người chiến sĩ. Trăng thực sự đã trở thành người bạn đồng hành tri âm tri kỉ của Bác, đồng hành cùng người trong suốt chặng đường cách mạng. Ngoài bài thơ “Rằm tháng giêng”, Bác còn có rất nhiều vần thơ rất đẹp về hình ảnh ánh trăng, ngay cả lúc ở trong chốn ngục tù”:

“”Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

(“Ngắm trăng” – Hồ Chí Minh)

Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã cho thấy vẻ đẹp thi sĩ trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng. Đến với thơ của Người, chúng ta sẽ luôn bắt gặp hình ảnh ánh trăng là biểu tượng cho tình yêu thiên nhiên cùng lòng yêu nước mãnh liệt giống như nhà nghiên cứu phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định “Thơ Bác đầy trăng”.

Đề bài: Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu

Giới thiệu tác phẩm: Từ ấy là bài thơ của Tố Hữu, sáng tác tháng 7-1938. Tác phẩm nằm trong phần Máu lửa của tập thơ Từ ấy ( 1937-1946). Từ ấy ra đời để ghi lại kỉ niệm đáng nhớ của tác giả trong ngày đầu được đứng trong hàng ngũ của Đảng.

Trích dẫn lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh : ” Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.

Vai trò của nghệ thuật trong việc làm cách mạng.

Một trong những người chiến sĩ, nghệ sĩ tích cực hoạt động trên cả mặt trận kháng chiến và mặt trận nghệ thuật chính là Tố Hữu.

Giới thiệu tập thơ Từ ấy và bài thơ Từ ấy.

Phân tích khổ thơ thứ nhất: Niềm vui sướng, say mê khi giác ngộ lí tưởng cách mạng:

Những hình ảnh ẩn dụ đặc biệt : nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim. Khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ.

Hình ảnh so sánh: ” hồn tôi” – ” vườn hoa lá” tươi vui, nhộn nhịp chính là niềm vui sướng, sự say mê, nồng nhiệt của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng mới.

Phân tích khổ thơ 2: Thể hiện nhận thức mới mẻ của nhà thơ về lẽ sống, sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân với cái ta của xã hội. Đặc biệt là với những người lao động nghèo khổ.

Từ ” buộc” thể hiện ý thức tự nguyện, sự quyết tâm cao.

“Trang trải”: tác giả trải rộng lòng mình với con người, với cuộc đời tạo sự đồng cảm sâu sắc.

“Khối đời”: chỉ khối người, tập thể tạo thành một khối đoàn kết, phấn đấu vì mục tiêu chung.

Tố Hữu đặt mình vào dòng đời, tìm thấy niềm vui, sức mạnh.

Phân tích khổ thơ cuối: Ý thức giác ngộ lẽ sống, mang tính giai cấp của người cộng sản:

Trước cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Nhưng sau khi được giác ngộ cách mạng đã là con người của cách mạng, của nhân dân.

“Là con của vạn nhà”, “là em của vạn kiếp phôi pha”, ” là anh của vạn đầu em nhỏ… cù bất cù bơ”: sự hòa nhập, gần gũi với con người, với cuộc sống đã làm tác giả sống cùng dân, chiến đấu vì dân tộc, vì đất nước.

Bài thơ thể hiện niềm tự hào, vui sướng khi được giác ngộ cách mạng, được đứng trong hàng ngũ của Đảng.

Bằng hình ảnh độc đáo, từ ngữ mộc mạc cùng tình cảm mãnh liệt, Từ ấy đã thể hiện đầy đủ ý thức, tâm tư của người làm cách mạng lúc bấy giờ.

Liên hệ với thanh niên ngày nay.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ mà rất đỗi bình dị, trong sáng : “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”. Từ ấy, năm 1938 khi mà chỉ mới 18 tuổi, Tố Hữu đã được giác ngộ lí tưởng cách mạng và vinh dự trở thành người chiến sĩ, Đảng viên của Đảng Cộng sản. ” Mặt trời chân lí chói qua tim”- chính lí tưởng cao đẹp ấy đã giúp cho con người ta đi đúng con đường thoát khỏi sự tù túng, sự khổ cực mà tìm cho mình nguồn sáng mới như một mặt trời chân lí, giải phóng con người, giải phóng dân tộc, tìm lại sự tự do, độc lập vốn có. Lí tưởng ấy khiến cho người chiến sĩ cách mạng vui sướng, tự hào vô cùng.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Trong tâm hồn người chiến sĩ, nghệ sĩ trở nên tưng bừng, vui sướng. Tâm hồn trở nên nhộn nhịp, vui tươi như ” một vườn hoa lá”, có hương thơm và tiếng chim ca ríu rít. Chính niềm vui sướng, say mê và tự hào của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng mới đã giúp ông viết lên những dòng thơ đầy tính ẩn dụ nhưng cũng vô cùng ấn tượng, sâu sắc.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải khắp trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Người chiến sĩ ấy “buộc lòng” mình với mọi người, thể hiện sự tự nguyện, quyết tâm cao khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, vì nhân dân, vì Tổ Quốc quên mình. Làm cách mạng không chỉ có chiến đấu trên chiến trường mà là người chiến sĩ còn phải biết trang trải, trải rộng lòng mình ra với trăm nơi, là nhân dân và sống trong lòng nhân dân, cái tôi nhỏ bé chan hòa trong cái ta rộng lớn. Tác giả đồng cảm sâu sắc với cuộc sống của nhân dân vì người chiến sĩ cách mạng từ dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Chính sự đồng cảm, gần gũi ấy đã tạo thành một “khối đời” mà bản chất chính là “lòng yêu nước nồng nàn đã kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn”, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta từ ngàn đời nay. ” Khối đời” ấy vững chắc, mạnh mẽ, giúp dân tộc ta được giải phóng, được độc lập, tự do cho tới ngày nay. Khổ thơ đã thể hiện nhận thức mới mẻ của nhà thơ về lẽ sống, sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân với cái ta của xã hội. Đặc biệt là với những người lao động nghèo khổ. Tác giả- người chiến sĩ, nghệ sĩ chân chính ấy không sống ra rời nhân dân mà gần gũi, gắn bó, làm sức mạnh cho nhân dân và cũng lấy nhân dân làm sức mạnh cho bản thân để vững vàng chiến đấu.

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ.”

Khổ thơ cuối cùng cũng chính là sự hòa nhập, gắn bó sâu sắc nhất của Tố Hữu với cuộc đời, với những con người. Nếu trước khi được giác ngộ cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản, thì sau khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, người thanh niên ấy đã trở thành một Đảng viên, một chiến sĩ và một người nghệ sĩ kiên cường trên chính mặt trận chiến đấu phụng sự Tổ Quốc và mặt trận nghệ thuật phụng sự kháng chiến. Tác giả trở thành “con của vạn nhà”, là người em nhỏ, là người anh lớn của mọi người, của nhân dân và của cả những em nhỏ ” không áo cơm, cù bất cù bơ”. Đồng thời, qua khổ thơ cuối, người ta cũng thấy hiện lên sự khó khăn của nhân dân trong kháng chiến. Họ đã kiên cường ra sao vì lí tưởng giải phóng cao đẹp mà chính đáng của một dân tộc cần được tự do, cần độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Tố Hữu đã không làm cho cách mạng xa rời nhân dân mà ở trong nhân dân, cùng nhân dân chiến đấu, cùng nhân dân làm cách mạng, giải phóng chính quyền thực dân, nửa phong kiến bấy lâu tồn tại trong xã hội bằng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945.

Từ ấy viết theo thể thơ thất ngôn cùng từ ngữ mới mẻ, hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, lời thơ da diết, nồng nàn đã thể hiện đầy đủ và sâu sắc ý thức cách mạng của người chiến sĩ trước sự độc lập của dân tộc. Tố Hữu không chỉ là một người chiến sĩ kiên cường trên mặt trận kháng chiến mà còn là một người nghệ sĩ tài năng trên mặt trận nghệ thuật vì cách mạng.

Bài thơ khép lại như một minh chứng rõ nét về người chiến sĩ có lí tưởng cao đẹp. Thể hiện niềm tự hào, vui sướng khi được giác ngộ cách mạng, được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Bằng hình ảnh độc đáo, từ ngữ mộc mạc cùng tình cảm mãnh liệt, Từ ấy đã thể hiện đầy đủ ý thức, tâm tư của người làm cách mạng lúc bấy giờ. Lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu ấy cho dù là mười, hai mươi hay một ngàn năm đi chăng nữa vẫn còn tồn tại và gìn giữ trong mỗi người dân Việt Nam. Thanh niên ngày nay cũng cần phải có những phẩm chất cao đẹp ấy. Những việc cho dù nhỏ cũng có thể giúp cho đất nước ta tươi đẹp hơn, độc lập, tự do lâu bền. Bằng những việc nhỏ như bảo vệ môi trường, học tập thật tốt, luôn giúp đỡ mọi người và đặc biệt nói không với những hành động tiêu cực, chống phá nhà nước sẽ giúp đất nước ta đời đời bền vững. Xứng đáng với những gĩ Bác Hồ đã dặn khi xưa : ” Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” và phải làm cho đất nước phát triển, sánh vai với các cường quốc trên thế giới, bắt kịp với nền khoa học hiện đại và kinh tế phát triển của thế giới trong thời đại 4.0.

Nguyễn Khánh Linh

Lớp 11A1 – Trường THPT Hoàng Văn Thụ, Lục Yên, Yên Bái