Giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối

Để sản xuất ra giá trị thặng dư các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đó. Một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến đó là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

Vậy phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là gì? Cùng người viết tìm hiểu qua nội dung bài viết dưới đây nhé.

Tìm hiểu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là gì?

Khi kỹ thuật còn thấp và yếu kém trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa thì phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là kéo dài sức lao động của những người công nhân làm việc.

Phương pháp này sẽ thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của người công nhân làm việc trong điều kiện thời gian lao động cố định không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này chính là giá trị thặng dư tuyệt đối.

Cùng theo dõi ví dụ này để hình dung rõ hơn nhé. Người lao động A làm việc trong 8h thì trong đó 4h đầu là thời gian lao động tất yếu còn 4h sau là thời gian lao động thặng dư. Giả sử kéo dài ngày lao động thêm 2h thì thời gian tất yếu vẫn không đổi còn thời gian lao động thặng dư là 6h.

Như vậy khi kéo dài ngày lao động lên trong khi thời gian lao động tất yếu không đổi thì khi đó thời gian lao động thặng dư tăng lên và từ đó tỷ suất giá trị thặng dư cũng sẽ tăng lên.

Giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối

Quá trình áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Sau khi đã tìm hiểu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là gì chúng ta cùng khám phá xam họ sẽ áp dụng phương pháp này như thế nào nhé

Các nhà tư bản có xu hướng kéo dài ngày làm việc đến mức giới hạn. Nếu có thể, hãy cho công nhân làm việc 24/24 giờ. Họ đã bỏ tiền ra để mua sức lao động trong một ngày, họ muốn sử dụng nó. Bạn có thể mua hàng. vào ngày này. Nhưng ngày làm việc không được dài hơn 24 giờ và không ai được làm việc 24 giờ. Vì người lao động cần có thời gian ăn, ngủ, nghỉ, thư giãn … để phục hồi sức khỏe và từ sự phản kháng của giai cấp công nhân.

Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày làm việc trong khi giai cấp công nhân muốn rút ngắn ngày làm việc. Do đó, độ dài của ngày làm việc có thể co giãn, và quyết định của nó phụ thuộc vào sự so sánh của các lực lượng trong chiến đấu. giữa hai giai cấp trên Điểm nghỉ về độ dài của ngày làm việc là thời điểm mà lợi ích kinh tế của nhà tư bản và lợi ích kinh tế của người lao động được thực hiện trong một sự thỏa hiệp tạm thời.

Khi đã xác định được độ dài của ngày lao động, nhà tư bản lại cố gắng tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động có nghĩa là chi phí để làm thêm công việc trong một khoảng thời gian nhất định, do đó, về cơ bản nó giống như kéo dài ngày làm việc, do đó, tăng giờ làm và tăng cường độ lao động là hai biện pháp để tạo ra giá trị tuyệt đối.

Các phương pháp liên quan đến phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

– Về phương pháp giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư là kết quả của việc rút ngắn thời giờ lao động tất yếu do năng suất lao động xã hội tăng lên. Sự gia tăng năng suất lao động xã hội diễn ra trên hết trong các ngành sản xuất như hàng tiêu dùng, sẽ làm giảm giá trị sức lao động và do đó làm giảm thời gian lao động cần thiết.Nếu độ dài của ngày lao động không đổi, giảm thời gian lao động cần thiết sẽ làm tăng thời gian lao động.

– Về giá trị thặng dư siêu ngạch

Để có lợi thế trong cạnh tranh, thu được nhiều giá trị thặng dư, nhà tư bản đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất, hoàn thiện phương thức quản lý kinh tế, nâng cao năng suất của nhân công. Kết quả là, giá trị cá biệt của hàng hoá nhỏ hơn giá trị xã hội của nó.

Nhà tư bản có thể làm được điều này sẽ thu được một số vốn bằng cách bán tài sản của mình. Ưu việt hơn các nhà tư bản khác. Tỷ lệ lợi nhuận vốn đạt được vượt quá lợi nhuận vốn bình thường của công ty được gọi là lãi vốn. Nếu xem xét mọi đơn vị sản xuất tư bản chủ nghĩa thì giá trị thặng dư là hiện tượng cục bộ tạm thời.

Nhưng trong mối quan hệ với toàn bộ xã hội tư bản, giá trị thặng dư là một hiện tượng thường trực. Vì vậy, thiện chí là một động lực. Động lực mạnh nhất của các nhà tư bản để cải tiến công nghệ và tăng năng suất lao động.

Như vậy, nội dung trên đây đã giúp cho bạn đọc hiểu rõ hơn về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là gì? đồng thời cũng giúp bạn có thêm kiến thức liên quan về nội dung này.

1 đ

1 đ

1 đ

1 đ

2 đ

1.Phân biệt giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch

a. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

- Là phương pháp SX giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động cần thiết không thay đổi.

- Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.

- Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một cách tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

- Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần, đồng thời vấp phải sức đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của công nhân nên với độ dài ngày lao động không thay đổi, nhà tư bản sẽ nâng cao trình độ bóc lột bằng việc tăng cường độ lao động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động.

=> KL: kéo dài thời gian lao động cũng như tăng cường độ lao động là để sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối.

b. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

- Là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư.

- SX m tương đối là phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối

- Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu thì phải hạ thấp gía trị sức lao động, bằng cách giảm giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người CN. Do đó phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, các ngành SX TLSX để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.

C. Sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch

- Là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.

- Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới sớm hơn các doanh nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội.

- Giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời trong từng doanh nghiệp, nhưng trong phạm vi xã hội nó thường xuyên tồn tại. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng.

* So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối

- Điểm giống nhau: Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ sở chung là chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.

- Điểm khác nhau:

GTTD tương đối

GTTD siêu ngạch

- Do tăng NSLĐ XH

- Toàn bộ các nhà TB thu

- Biểu MQH giữa CN với nhà TB

- Do tăng năng suất lao động cá biệt.

- Từng nhà Tb thu

- Biểu hiện MQH giữa CN với nhà TB và giữa các nhà TB với nhau

2. Sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB

- Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư ngày càng nhiều.

- Phương tiện và thủ đoạn để có nhiều giá trị thặng dư là tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý (thể hiện ở hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư )

- Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng tồn tại một quy luật kinh tế phản ánh MQH bản chất nhất của phương thức sản xuất theo Các Mác, chế tạo ra trị thặng dư đó là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất TBCN

- Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do CN làm thuê tạo ra và bị nhà TB chiếm không, phản ánh MQH kinh tế bản chất nhất của CNTB – quan hệ bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của CN tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà TB.

- Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà TB cũng như toàn bộ XH TB. Nhà TB cố gắng SX ra hàng hóa với chất lượng tốt cũng là để thu được nhiều giá trị thặng dư.

- SX giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền SX hàng hóa TBCN mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn sử dụng để đạt được mục đích như tăng cường bóc lột CN làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài thời gian lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng SX.

=> Như vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB là cơ sở của sự tồn tại và phát triển TBCN. Nội dung của nó là SX ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột CN lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của CNTB . Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.