Khởi nghĩa của nguyễn thanh nguyễn kỵ1379thanh hóa thanh cong năm 2024

Còn rất nhiều nữa, nhưng tôi không trích ra, làm bài viết quá dài, và vì tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết.

  1. Đã đọc cuốn LSPGĐT, mà còn lẫn lộn ngược xuôi.

- Thiền Sư Phật-Ý là Sư Phụ của Hòa Thượng Liên-Hoa (CTLHHT, trang 351), trong khi cuốn LSPGĐT cho là Thiền Sư Phật-Ý và Thiền Sư Liễu-Đạt (Liên-Hoa) là sư huynh, sư đệ cùng tông phái Lâm Tế (LSPGĐT, Tập II, trang 268)...

- Thiền Sư Viên-Quang là Sư Đệ của Thiền Sư Liên-Hoa (CTLHHT trang 364), trong khi LSPGĐT cho là Thiền Sư Viên-Quang quy y, thọ giáo với Thiền Sư Phật-Ý (LSPGĐT, Tập II, trang 293), nghĩa là Thiền Sư Liên-Hoa là Sư Thúc của Thiền Sư Viên-Quang...

Thôi thi khó mà trích ra cho hết những cẩu thả viết về lịch sử, cùng sự lẫn lộn ngược xuôi, trong cuốn tiểu thuyết nầy !

Tôi có cảm tưởng là, thay vì đọc cuốn LSPGĐT để học hỏi, tìm hiểu thêm các Đại Danh Tăng, các Đại Thiền Sư đã làm lịch sử vẻ vang cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, thì ông Như Điển, khi đọc đến những trang 231, đã hoa mắt và chỉ thấy có câu chuyên nầy mà thôi...

  1. Đã chạm tới thanh danh của chốn Thiền Môn.

- Ngay cả ngày nay, trong một gia đình lễ giáo, con cái không được " nghe lóm " (nghe lỏm, nghe lóng) chuyện của cha mẹ, thế mà trong CTLHHT (trang 369) có câu " Cả 2 chú Mật Đĩnh và Mật Hạnh đều ra chiều đắc ý khi nghe lóm được câu chuyện trao đổi giữa hai vị quan nầy "...

- Tả những chuyện nghe lóm và bàn tán thầm thì về chuyện tình, giữa các chú tiểu ở chốn Thiền Môn (CTLHHT, trong những trang 372 và tiếp theo).

- Dùng những danh từ dung tục, như " món ngon, vật lạ " để chỉ cái gì là tình, là yêu (CTLHHT, trang 386) ; " cả thân dâng hiến " (CTLHHT, trang 420), và có thể còn nhiều nữa, vì tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết.

Với những điều trên, chẳng những thanh danh của các Thiền Môn bị phạm mà cũng phạm đến đạo đức tu hành của các vị Đại Tăng chân tu. Càng đọc cuốn CTLHHT, tôi càng ớn lạnh !

  1. Chêm thêm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức..., và... dịch sai chữ Hán chăng ?

Như trên, ở phần " tác giả " lấy theo thông tin của chùa Viên Giác ở Đức, thì ông Như Điển rất thông thái, rất rành nhiều ngoại ngữ. Nên có lẽ viết tiếng Việt, sợ độc giả chưa hiểu thấu tâm can của ông, nên ông phải chêm thêm ngoại ngữ, như ở trang 622, " Peaceful Death and Joyful Rebirth (?) " ; ở trang 222, " Manger pour vivre et non vivre pour manger (?) " ; ở trang 145, "Nirvana ist weder Form noch Gestalt.Alle Phänomen* sind unbeständig; alle Phänomen* sind unsicher (?) "..., và tất nhiên có chữ Hán (âm Hán-Việt), chữ Pali, chữ Phạn (latinh hóa),..., rồi để cuối cùng, làm cho những độc giả kém hiểu biết như tôi, về ngoại ngữ và cổ ngữ, phải lầm to, như ở trang 394, hai chữ " Nhập Thất 入 室 " ông Như Điển đã giải thích như sau : " Thất đây có nghĩa là chỗ ở, mà cũng có nghĩa là 7 ngày..." !

* Thiếu chữ " e " trong từ Phänomen nầy chăng ?

  1. Đại ngôn. Cao ngạo.

Hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính. Tôi tin ông Như Điển, về đạo đức cũng như về tu học, không bằng hai vị đó, thế mà ông Như Điển đã đại ngôn, cao ngạo :

- Ông bịa đặt chuyện tình, rồi đem chuyện " Tăng sĩ trẻ với cô lái đò " để dạy đời Thiền Sư Hòa Thượng Liên-Hoa. (CTLHHT, trang 354)

- Ông dám cho đạo đức của ông còn hơn đạo đức của Thiền Sư Hòa Thượng Liên-Hoa : Trong bài " Hoàng Cô tình sử " của Thiện Giới Hoa Lan (xin xem trên mạng), bà Hoa Lan viết : " ... nếu trường hợp của Hòa Thượng (ông Như Điển) rơi vào tình trạng như thế, Thầy giải quyết làm sao ? Hòa Thượng (ông Như Điển) cười thật tươi, trả lời rằng, đời tôi không bao giờ có chữ Nếu ! Thật ra trong đời tu của tôi cũng có rất nhiều người yêu tôi. Nhưng quý vị thấy đó ! Giờ này tôi vẫn còn ngồi nơi đây.".

- Không biết ông Như Điển lấy tư cách gì, để một khi bịa đặt chuyện tình ở chốn thiền môn, mà dám " thăng hoa " Hoàng Cô ! (CTLHHT, trang 624).

  1. Dịch cuốn Đại Đường Tây Vực Ký.

Để tìm kiếm tài liệu về Hòa Thượng Liên-Hoa trên Internet, tình cờ, tôi thấy bài " Đại Đường Tây Vực Ký - Phê bình bản dịch của Thích Như Điển - PBĐĐTVK " của Triệu Minh Di. Bài có 61 trang. [Nguồn : thongtinberlin.de].

Tôi không biết chữ Hán, không đọc cuốn sách dịch Đại Đường Tây Vực Ký (dịch từ chữ Hán ra chữ Việt) của ông Như Điển và tôi cũng không biết kinh Hoa Nghiêm. Nhưng theo Triệu Minh Di thì ông Như Điển, vì không hiểu chữ Hán, như ông đã tự khoe; hiểu sai kinh Hoa Nghiêm, như các nhóm chữ" Tập Định ", " Dược Xoa ", " Kiếp Sơ ", " Vô Già Đại Hội ", mà một người tu học trên 40 năm phải biết, thế mà ông Như Điển cũng tự cho mình là hòa thượng, nên Triệu Minh Di đã nói ông Như Điển là " ngu dốt ", " thất học ", " thất tu ", " Như Điển liệng rác vào mặt mọi người..."... Tôi thấy lời lẽ của Triệu Minh Di hơi " nặng ", nên tìm đọc vài trang của cuốn PBĐĐTVK, và tra lại các Từ Điển Hán-Việt, cùng cuốn Từ Điển Bách Khoa Nho-Phật-Đạo - TĐBKNĐP, của Lao Tử, Thịnh Lê (Nhà Xuất Bản Văn Học, Hànội, 2001), thì thấy lời nói của Triệu Minh Di cũng không phải là vô lý. (Xin xem thêm " Thư trả lời của Minh-Di về việc phê bình bản dịch Đại Đường Tây Vực Ký của ông Như Điển ", ở trên mạng).

  1. Tạm kết luận.

Viết đến đây, tôi muốn xóa bỏ hết những đoạn trên, nói về ông Như Điển (từ a đến g), vì Chuyện Tình của Liên-Hoa Hòa Thượng là một chuyện tào lao, do một thầy tu tào lao viết, nên thật tình, tôi không muốn để ý tới.

Viết tiểu thuyết là quyền tự do tối thượng của ông Như Điển, nhưng ông đã bịa đặt câu chuyện, thì cũng nên bịa đặt các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết của ông, cớ chi ông lấy danh hai nhân vật lịch sử mà được người đời tôn kính, để rồi có sự bàn tán không hay, xúc phạm đến thanh danh của hai vị, và có thể đến cả thanh danh của các Cao Tăng, Đại Đức ngày nay. Trên mạng có bài " Hoàng Cô tình sử " của Thiện Giới Hoa Lan, cùng một số bài khác. Bà Hoa Lan cũng " gợi ý " (dạy) cho Thiền Sư Liên-Hoa những phương cách để " giáo hóa " Hoàng Cô, thay vì tự thiêu. Bà Hoa Lan nói " Phật pháp rất nhiệm màu (nhiệm mầu ?), cái gì cũng giải được chỉ sợ ta không quyết tâm đấy thôi." ! Còn về phần Hoàng Cô, thì bà đã thốt : " Nếu xét về nghiệp duyên tình ái Bà (Hoàng Cô) là cao thủ đáng mặt thượng thừa..." !

Nhưng vì tôi đã để ra thì giờ trích những cái sai lầm rất to lớn trong cuốn tiểu thuyết, tuy như đã trình trên, tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết nầy, để độc giả thấy rõ sự phạm, vô căn cứ và vô căn cớ, của ông Như Điển, đến thanh danh của hai nhân vật lịch sử mà cho đến bây giờ một số đông quần chúng vẫn còn ngưỡng mộ, cùng sự phạm, có thể có, đến các chốn Thiền Môn thanh tịnh, và cả đến thanh danh của các Danh Tăng, Đại Đức hiện nay. Nên tôi không xóa đi.

IV - Chánh Sử và một vài tài liệu đứng đắn.

  1. Theo Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên - ĐNLTCB, Tập 2, Quyển 3 (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, Huế, 1993), trang 65, ghi :

" Long-Thành Công-Chúa Ngọc-Tú : Con gái lớn của Hưng-Tổ, là chị cùng mẹ với Thế-Tổ. Khi biến loạn năm Giáp-Ngọ (1774), theo Hiếu-Khang Hoàng-Hậu, ẩn nấu làng An Du (7). Mùa xuân năm Kỷ-Hợi (1779), theo Hậu vào Gia Định, gả cho Cai Cơ là Lê Phước Điển. Năm Quý-Mão (1783), chiến dịch ở đảo Diệp Thạch, Điển bị giặc bắt được, chửi giặc rồi bị giết chết. Chép rõ ở truyện Điển. Khi ấy Chúa còn trẻ tuổi, giữ tiết không đi lấy chồng nữa. Chúa từng nói rằng : Điển làm bề tôi, biết chụi chết vì tiết nghĩa, ta là vợ há nên biến đổi tiết nghĩa, khi nào lấy lại được Kinh Thành cũ, ta lập tức xuất gia thờ Phật mà thôi. Thế-Tổ khen về chí tiết liệt của Chúa. Buổi đầu năm Gia-Long, Thế-Tổ làm nhà tại xã Dương Xuân để Chúa ở. Chúa thường xin gọt tóc, Thế-Tổ không bằng lòng cho.

(7) : [An-Du 安 遊 ở tỉnh Quảng-Trị, là quê của Thái Hậu Hiếu-Khang.]

Năm Minh-Mạng thứ tư (1823) là năm Quý-Mùi, mùa đông, Chúa mất, thọ 65 tuổi. Trước đây Chúa bệnh nặng, Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế đến thăm, Chúa khóc nói rằng : cắt tóc thờ Phật, đấy là ý muốn lúc bình sinh của vị vong nhân (8) nầy, có chí muốn mà chưa làm được, duy Hoàng Đế làm cho trọn vẹn ý muốn ấy, sau khi chết rồi, chớ có để tóc, liệm bằng áo cà sa, thế là hồn ở dưới chín suối, xong được ý muốn ấy rồi. Thánh-Tổ lấy làm cảm động. Khi Chúa mất rồi, Thánh-Tổ đem lời nói của Chúa bảo Kiến An Công là Đài. Kiến An Công Đài tâu rằng : Thân thể tóc da là của cha mẹ để cho, lúc mới sinh ra trọn vẹn, lúc chết vẫn giữ được trọn vẹn là lễ đấy. Hoàng Đế trị vì thiên hạ nên chuộng đạo chính, truất bỏ dị đoan, lời Chúa xin thế không thể theo được. Thánh-Tổ cho là phải, bèn sai Ông (Đài) cùng Diên Khánh Công Tấn hội đồng với Bộ Lễ sửa việc tang, cấp cho nhiều của (để trị tang). Nghỉ coi chầu năm ngày, sai quan đến tế một đàn, tặng là Long-Thành Thái Trưởng Công Chúa, tên thụy là Trinh-Tĩnh, phụ táng cạnh Lăng Thụy-Thánh (9)... Ngày an táng, Thánh-Tổ nghỉ coi chầu một ngày, mặc áo trắng đi đưa.

(8) : [Vong nhân : chỉ người đàn bà góa.] (9) : [Lăng của Thái Hậu Hiếu-Khang.]

Trước kia, năm Gia-Long thứ 11 (1812), sửa làm Lăng Thụy-Thánh, Thế-Tổ dụ rằng : Trưởng Công Chúa thờ mẹ có hiếu, kính giữ đạo làm con lúc gian nan để tiếng thơm như ngọc uyển, ngọc diễm, đặc biệt chuẩn cho dựng sinh phần ở bên Lăng. Lại dự đặt nơi phụ hưởng ở một gian bên tả Tẩm Điện (Đền Thờ Lăng Thụy-Thánh). Đến đây mất, bèn phụ táng ở đấy. Năm thứ năm, phụ hưởng ở một gian bên tả, hướng Tây. Không có con thừa tự, lấy Thường Tín Công Cự coi việc thờ tự. "

  1. Theo Bulletin des Amis du Vieux Huê - BAVH, Tập 3 (Juillet-Septembre), 1915, trong bài " La Pagode Quấc-Ân (10) - Les Divers Supérieurs " do Linh Mục Léopold Cadière viết, trang 308, 309, ghi :

(10) : [Chú ý chữ " Quốc ", ở Huế lúc trước, viết Quấc.]

Bài viết bằng tiếng Pháp, tôi cố gắng dịch ra tiếng Việt, và để cho khá trung thành, tôi ghi theo đây những chữ Hán, như nguyên bản :

" Sự trùng tu chùa Quấc-Ân được gắn liền với tên của một vị Công Chúa nhà Nguyễn, Công Chúa Ngọc-Tú 玉 琇 , hay Long-Thành-Công-Chúa 隆 城 公 主 , Bà là con cùng mẹ và là chị cả của vua Gia-Long. Bà đã theo mẹ và cả (toute) triều đình vào Nam, khi Bắc quân (Tonkinois) đến Huế. Bà được gả cho Cai-Cơ Lê-Phúc-Điển 黎 福 日典 (có nơi cho âm Thiển). Ông ta đã chiến đấu dũng cảm với Tây-Sơn, rồi bị bắt và bị giết. Bà mất chồng khi còn trẻ, và không con, Bà không muốn tái giá. Bà hay đi lễ (fréquenter) chùa Từ-Ân 慈 恩 寺 , ở đây Trú Trì (Supérieur, Tọa Chủ, Trú Trì ?) Liên-Hoa 蓮 花 , còn gọi là Thiệt-Thành 寔 誠 hay Liễu-Đạt 了 達 , khuyên (persuader : thuyết phục) nên giữ " Tam Quy 三 皈 , Ngũ Giới 五 戒 . ".

Vị Sư nầy, quê ở vùng quanh Huế (environs de Hué) chăng ? Ông có tu tại chùa Quấc Ân trong vài năm chăng ? (11) Dầu sao đi nữa thì (Toujours est-il), theo các tài liệu biên niên (annales) còn lưu trữ ở chùa (Quốc-Ân), Hòa Thượng Liên-Hoa có dặn dò Bà, khi nào hoàn cảnh cho phép trở về Huế, thì đừng quên (lo cho ?) chùa Quấc Ân. Bà về Huế khoảng 1801, và mất năm 1823, thọ 65 tuổi.

(11) : [Nếu Hòa Thượng Liên-Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ, thì có lẽ Linh Mục Cadière đã nói ở đây, vì trong bài nầy, tác giả có đề cập tới sự liên hệ mật thiết giữa các Tăng Cang, Trú Trì chùa Thiên Mụ với các Trú Trì chùa Quốc Ân.]

Năm 1805, Bà chỉ định (charger) hai Đại-Sư 大 師 Trí-Hải 智 海 và Chính-Văn 正 聞 xây lại chùa Quấc-Ân, cùng triệu tập một số Tăng Chúng cho chùa. Nhân đó, Bà cúng 300 quan (ligature, xâu tiền, quan tiền ?)... Ngôi chùa mới khá đơn giản. Theo sự đồn miệng, thì đó cũng chỉ là một am-tranh (12) (chữ trong bài viết), nhưng dầu sao, tác phẩm của Ngài Nguyên-Thiều đã được hồi sinh. Vì thế, tên của Trú Trì (Supérieur) Liễu-Đạt và Công Chúa Long-Thành được ghi một cách trịnh trọng (en bonne place) trong sổ ghi danh các vị Sư và các ân nhân của chùa.

(12) : [Am tranh đây chắc là một cách nói để chỉ nơi các Sư tu hành. Số tiền 300 quan là một số tiền khá lớn thời bấy giờ, chắc ngôi chùa mới cũng là một cái am nhỏ, xây bằng gạch, mái lợp ngói, chứ không phải một cái am vách đất, lợp tranh.]

Người ta con giữ lại ở chùa 5 bức chân dung. Các chân dung được đặt ở bàn thờ dành cho các Danh Sư đã tu tại chùa, trong đó có chân dung của Ngài Liễu-Đạt, còn gọi là Liên-Hoa... ".

  1. Theo Bulletin des Amis du Vieux Huê - BAVH, Tập 3 (Juillet-Septembre), 1923, trong bài " Le Tombeau de Gia-Long " do Linh Mục Léopold Cadière viết, trang 343, 344, ghi :

" ... Tẩm của Công Chúa Ngọc-Tú...[bản đồ Lăng Thiên-Thụ, Lăng của Thế-Tổ, số XLVI, ghi Tẩm của Hoàng Cô, chị cả của vua Gia-Long]... khi đến những ngày kỵ (của Hoàng Hậu Hiếu-Khang), thì chủ tế lạy trước bàn thờ của Mẹ vua Gia-Long, rồi quay sang bàn thờ của người con gái (Công Chúa Long-Thành) vái 4 vái. Trong khám thờ (Công Chúa Long-Thành), sau bàn thờ không có Thần-Chủ (tablette funéraire) (13).

(13) : [Thần Chủ được thờ tại Phủ Thường Tín Quận Vương (Nguyễn-Phước Cự), ở làng Xuân-Vinh, huyện Phú-Lộc, Thừa-Thiên. Ở Điện Thoại-Thánh chỉ có Thần Vị của Công Chúa.]

Tẩm là một cái Tháp (stûpa) có 4 tầng... Vòng thành phía trong dài 15 m, rộng 9 m, cao 1,50 m... Vòng thành ngoài dài 24 m, rộng 16 m, cao 2,40 m...".