Năm 2023 lương vùng có bãi bỏ khô

1. Hiện tượng ENSO

Dự báo hiện tượng ENSO có khả năng sẽ tiếp tục duy trì trạng thái La Nina trong các tháng cuối năm 2022 sau đó trở lại pha trung tính với xác xuất 50-60%, khả năng La Nina kéo dài sang đầu năm 2023 là khoảng 20-30%.

2.Nhận định khí hậu khu vực Việt Nam

2.1. Nhận định diễn biến xu thế khí hậu cuối năm 2022

- Xoáy thuận nhiệt đới và các hiện tượng thời tiết nguy hiểm

Từ nửa cuối năm 2022 đến tháng 01 năm 2023, dự báo trên khu vực Biển Đông có khoảng 09-11 cơn bão và ATNĐ, trong đó có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền nước ta khoảng từ 04-06 cơn, ở mức  cao hơn so với TBNN cùng thời kỳ. Đề phòng xảy ra bão dồn dập trong các tháng cuối năm 2022.

Từ tháng 10-11/2022, khu vực ven biển Trung Bộ và Tây Nguyên dự báo lượng mưa cao hơn TBNN, cảnh báo nguy cơ cao xảy ra mưa lớn dồn dập. Ngoài ra, cần đề phòng các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như dông, lốc, mưa đá trên phạm vi toàn quốc.

- Nhiệt độ, nắng nóng và KKL:

Khu vực Bắc Bộ: tháng 10/2022 ở xấp xỉ TBNN; tháng 11-12/2022 phổ biến ở mức thấp hơn TBNN khoảng 0,50C; tháng 01/2023 nhiệt độ ở mức xấp xỉ TBNN cùng thời kỳ.

Khu vực Trung Bộ: tháng 10/2022 ở xấp xỉ TBNN; tháng 11-12/2022 phổ biến ở mức thấp hơn TBNN khoảng 0,50C; tháng 01/2023 nhiệt độ ở mức xấp xỉ TBNN cùng thời kỳ.

Khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ: từ tháng 10/2022-01/2023 nhiệt độ phổ biến xấp xỉ TBNN cùng thời kỳ.

KKL có khả năng hoạt động sớm và nền nhiệt độ các tháng đầu mùa Đông ở các tỉnh miền Bắc có khả năng thấp hơn so với TBNN cùng thời kỳ.

- Lượng mưa:

+ Khu vực Bắc Bộ:

Tháng 10/2022, TLM ở Bắc Bộ ở mức cao hơn TBNN từ 10-25% với xác suất khoảng 60-70%, riêng khu vực Tây Bắc có lượng mưa thấp hơn so với TBNN từ 5-15% với xác suất 60-70%.

Từ tháng 11/2022-01/2023, TLM tại Bắc Bộ ở mức thấp hơn so với TBNN từ 20-50% với xác suất khoảng 60-70%.

+ Khu vực Trung Bộ:

Tháng 10/2022, TLM ở Bắc Trung Bộ phổ biến cao hơn từ 10-25% so với TBNN, khu vực Trung và Nam Trung Bộ phổ biến cao hơn từ 30-60%, có nơi trên 70% với xác suất khoảng 70-90%.

Tháng 11/2022, tại Bắc Trung Bộ TLM phổ biến xấp xỉ TBNN với xác suất khoảng 60-70%, khu vực Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ, TLM phổ biến cao hơn từ 20-40%, có nơi trên 50% so với TBNN cùng thời kỳ với xác suất khoảng 70-90%.

Tháng 12/2022, TLM phổ biến cao hơn TBNN từ 10-30%, riêng Bắc Trung Bộ thấp hơn TBNN từ 10-20% với xác suất khoảng 60-80%.

+ Khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ:

Tháng 10-11/2022, TLM tại Tây Nguyên phổ biến ở mức cao hơn từ 30-60%, trong đó tháng 10/2022 có nơi cao hơn trên 70%; tại Nam Bộ TLM cao hơn từ 10-20% so với TBNN với xác suất khoảng 60-70%.

Tháng 12/2022, TLM phổ biến cao hơn khoảng 10-20% so với TBNN cùng thời kỳ với xác suất khoảng 60-70%.

2.2. Nhận định xu thế khí hậu từ tháng 01 đến tháng 6/2023

- Nhiệt độ: Nhiệt độ khu vực Việt Nam và các vùng lân cận có xu hướng ở mức thấp hơn đến xấp xỉ so với TBNN trong thời kỳ tháng 01 đến tháng 3/2023 và có xu hướng cao hơn trong thời kỳ từ tháng 4 đến tháng 6/2023 (Hình 7).

- Lượng mưa: Từ tháng 01 đến tháng 3/2023, lượng mưa tại khu vực Việt Nam và các vùng lân cận có xu hướng cao hơn TBNN cùng thời kỳ và từ tháng 4 đến tháng 6/2023 có xu hướng thấp hơn so với TBNN, riêng một số tỉnh thuộc Tây Nam Bộ có khả năng cao hơn so với TBNN cùng thời kỳ (Hình 8).

- XTNĐ: Hoạt động của XTNĐ trên khu vực Biển Đông có xu hướng cao hơn so với TBNN cùng thời kỳ, lưu ý trong các tháng đầu năm 2023 (đặc biệt là tháng 01/2023) vẫn có khả năng xuất hiện XTNĐ trên khu vực Biển Đông, tuy nhiên khả năng đổ bộ vào đất liền nước ta là không cao.

Tóm lại, trong nửa cuối năm 2022, XTNĐtrên khu vực Biển Đông có xu hướng xấp xỉ TBNN và ảnh hưởng đến nước ta ở mức cao hơn so với TBNN cùng thời kỳ; nhiều khả năng XTNĐ sẽ hoạt động dồn dập trong các tháng cuối năm 2022 và có thể còn xuất hiện trong tháng 01/2023, vùng ảnh hưởng tập trung nhiều ở khu vực Trung Bộ và phía Nam. Từ tháng 8-10/2022 nhiệt độ trung bình trên cả nước có xu hướng cao hơn TBNN;các tháng của mùa Đông năm 2022-2023 nhiệt độ có xu hướng từ xấp xỉ đến thấp hơn so với TBNN. Từ tháng 01-3/2023 lượng mưa có xu hướng cao hơn TBNN trên toàn quốc, các tháng mùa khô đầu năm 2023 tại khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ có thể xuất hiện các đợt mưa trái mùa. Từ tháng 4-6/2023 lượng mưa trên cả nước phổ biến có xu hướng thấp hơn TBNN.

Nguồn: Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia.

Sau hai năm liên tiếp lùi cải cách tiền lương, Chính phủ cần chuẩn bị nguồn lực để năm 2023 thực hiện vào đầu hoặc giữa năm, theo chuyên gia Phạm Minh Huân.

Kỳ họp Quốc hội vừa diễn ra đã đồng ý lùi thời điểm cải cách chính sách tiền lương; đồng thời, chưa nâng lương cho người thu nhập thấp, mới đi làm trong năm 2022; ưu tiên điều chỉnh lương hưu cho người nghỉ hưu trước năm 1995.

Chủ trương cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và lao động trong doanh nghiệp được Trung ương đề ra tại Nghị quyết 27, từ năm 2018; thời gian dự kiến thực hiện vào tháng 7/2021.

Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch kéo dài, chủ trương này đã phải lùi lại hai năm liên tiếp. Ban đầu Trung ương dự kiến lùi thời điểm cải cách tiền lương một năm so với mục tiêu ban đầu, tức là từ 1/7/2022 thay vì 1/7/2021. Sau đó các cấp có thẩm quyền tiếp tục quyết định chưa thực hiện trong năm 2022.

Lương cơ sở điều chỉnh hai mươi năm qua. Đồ họa: Tiến Thành

Lương cơ sở điều chỉnh hai mươi năm qua. Đồ họa: Tiến Thành

Nghị quyết của Quốc hội nêu sẽ thực hiện cải cách chính sách tiền lương vào "thời điểm phù hợp", không xác định cụ thể thời gian. Tuy nhiên, nguyên Thứ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân đề xuất, nếu đại dịch được khống chế và kinh tế phục hồi, Trung ương nên chuẩn bị nguồn lực để bắt đầu cải cách vào thời điểm đầu hoặc giữa năm 2023.

Theo ông, mục tiêu và lộ trình cải cách đều đã có, các khâu kỹ thuật cũng không phải vấn đề lớn, song nền kinh tế sau đại dịch sẽ có nhiều nhiệm vụ ưu tiên khác nhau, do vậy để đưa vấn đề tiền lương vào nhóm việc cần làm thì "phải chuẩn bị nguồn lực và sự quyết tâm của cả hệ thống".

"Việc cải cách tiền lương khu vực công phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách, nếu sản xuất tiếp tục khó khăn, ảnh hưởng đến nguồn thu sẽ rất khó thực hiện, do vậy chúng ta phải chủ động chuẩn bị nguồn lực ngay từ bây giờ", ông nói thêm, và cho rằng thực chất cải cách tiền lương là động lực của cải cách bộ máy hành chính, do vậy, không nên trì hoãn quá lâu việc này.

Một yếu tố quan trọng khác để cải cách tiền lương, theo ông Huân là cần xem lại "biên chế tinh gọn thực chất hay chưa". "Chỉ cần tinh giản được 10% biên chế, sẽ có khoản đáng kể để tăng lương. Các khu vực sự nghiệp như giáo dục, y tế, Nhà nước chỉ bao cấp một phần còn lại để các đơn vị tự chủ", ông nói.

Với kịch bản không mong muốn là kinh tế tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch, ông Huân nói thời điểm cải cách tiền lương có thể lùi tiếp, song "nên tăng lương cơ sở cho cán bộ, công chức vì thời gian tạm dừng điều chỉnh đã quá lâu". Trong kịch bản này, việc cải cách tiền lương theo Nghị quyết 27 chưa thực hiện, cách tính lương khu vực công vẫn như hiện nay (lương = lương cơ sở x hệ số lương + phụ cấp nếu có), tuy nhiên cần tăng lương cơ sở từ mức 1,49 triệu đồng lên mức mới.

Về định hướng cải cách tiền lương sau năm 2022, ông Huân cho hay Trung ương đã quyết định thiết kế cơ cấu tiền lương mới khu vực công gồm lương cơ bản (chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương), các khoản phụ cấp (chiếm 30%); bổ sung tiền thưởng (quỹ tiền thưởng bằng khoảng 10% tổng quỹ tiền lương của năm, không bao gồm phụ cấp).

Việc cải cách sẽ tiến tới xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành. Bảng lương mới bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng, trong đó bãi bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay, xây dựng mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể.

Trung ương cũng định hướng xây dựng ban bảng lương khác nhau, gồm bảng lương áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo (bầu cử và bổ nhiệm); bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức; bảng lương đối với lực lượng vũ trang.

Theo ông Huân, việc quy định lương bằng lương cơ sở nhân hệ số nhiều năm liền đã không thể hiện rõ giá trị thực của tiền lương. Lương trả theo hệ số và cào bằng cả hệ thống công chức cùng hưởng lương như nhau, dù trình độ chuyên môn và hiệu quả công việc mỗi người khác nhau. Do vậy, việc bãi bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay sẽ giúp bảng lương mới khắc phục được các hạn chế vừa nêu, đồng thời khuyến khích công chức, viên chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Nguyên Thứ trưởng Lao động Thương binh Xã hội Phạm Minh Huân. Ảnh: Xuân Hoa

Nguyên Thứ trưởng Lao động Thương binh Xã hội Phạm Minh Huân. Ảnh: Xuân Hoa

Một điểm mới của cải cách tiền lương tới đây là đối với khu vực công sẽ không bổ sung các loại phụ cấp mới theo nghề. Trước năm 1993, bên cạnh lương có khoảng 50 loại phụ cấp, dù đã được cắt giảm đi nhiều song sau đó lại phát sinh. Tất cả đều do ngân sách chi trả. Mức lương cơ sở hiện duy trì 1,49 triệu đồng, song các chế độ phụ cấp đi kèm có khoảng 20 loại.

Nghịch lý lương không đủ sống mà phụ cấp quá nhiều, được cho xuất phát từ sự quản lý không cân đối, áp lực lương thấp đè nặng buộc các ngành phải tìm cách bổ sung phụ cấp. Tới đây, cùng với bảng lương mới, các cơ quan sẽ sắp xếp lại các chế độ phụ cấp hiện hành, bảo đảm tổng quỹ phụ cấp chiếm tối đa 30% tổng quỹ lương.

Dự kiến trong năm đầu tiên thực hiện cải cách, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp, sau đó tăng dần theo lộ trình 5 năm.

Với khu vực doanh nghiệp áp dụng lương tối thiểu vùng, lộ trình cải cách đặt ra từ năm 2021, Nhà nước định kỳ điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia. Song hai năm qua, mức lương tối thiểu vùng chưa thể tăng, vẫn giữ nguyên mức cũ với bốn vùng. Vùng I là 4,42 triệu đồng; vùng II 3,92 triệu; vùng III 3,42 triệu và vùng IV 3,07 triệu đồng.

Trả lời chất vấn Quốc hội, Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho hay các cơ quan đang thí điểm cải cách tiền lương khu vực doanh nghiệp ở 3 tập đoàn để rút kinh nghiệm, làm cơ sở triển khai trên quy mô cả nước.

Theo ông Dung, lương của doanh nghiệp thời gian tới sẽ có thay đổi rất căn bản. Lương được xác định chính là giá cả của sức lao động, theo nguyên tắc thị trường, có sự can thiệp nhất định của Nhà nước. Người lao động được tăng lương dựa trên tốc độ tăng năng suất lao động, chỉ số giá cả, khả năng chi trả của doanh nghiệp.

Một dãy phòng trọ của công nhân Khu công nghiệp Tân Tạo, TP HCM, thời điểm dịch chưa bùng phát. Ảnh: Hữu
Khoa

Một dãy phòng trọ của công nhân Khu công nghiệp Tân Tạo, TP HCM, thời điểm dịch chưa bùng phát. Ảnh: Hữu Khoa

Nguyên Thứ trưởng Phạm Minh Huân phân tích, lương trong khu vực doanh nghiệp những năm qua cơ bản vẫn do thị trường quyết định. Nhà nước can thiệp vào lương tối thiểu đảm bảo mức sống tối thiểu để người lao động không bị bần cùng hóa hay nghèo đi. Phần còn lại thị trường tự điều phối, song phụ thuộc vào hai bên: Sức khỏe của doanh nghiệp và khả năng thương lượng của người lao động.

Với lao động chuyên môn cao, những năm qua cũng đã tự thương lượng được với giới chủ. Bằng chứng là thị trường cần trình độ nào thì thuê lao động ở trình độ đó, không đáp ứng được sẽ bị đào thải. Điều này bắt buộc đào tạo những năm tới phải đổi mới, gắn với nhu cầu của thị trường, tránh lãng phí.

Với lao động chuyên môn thấp, cần thiết phải có tổ chức đại diện cho quyền lợi của người lao động đứng ra thương lượng với giới chủ. Tổ chức này nằm trong doanh nghiệp, do người lao động tự thành lập, tham gia, như quy định của Bộ luật Lao động 2019. "Từ trước đến nay, người lao động luôn ở trong thế yếu, nên nếu trả lương theo sức lao động, vai trò của tổ chức đại diện cho người lao động thương lượng với giới chủ về tiền lương là cực kỳ quan trọng", ông Huân nói.

Theo ông, bản thân doanh nghiệp cũng phải tự nhận thức trách nhiệm xã hội qua vấn đề lương, phúc lợi xã hội để giữ chân lao động. Việc các cơ quan nhà nước cần làm là tăng cường kiểm tra, giám sát và cung cấp thông tin thị trường, giúp người lao động có cơ sở thương lượng với giới chủ.

Hồng Chiêu