Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

Nguyên nhân trực tiếp đòi hỏi Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945-1950 là

Xem lời giải

Nguyên nhân trực tiếp đòi hỏi Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 – 1950 là:

A.

Tiến hành cuộc xây dựng CNXH đã bị gián đoạn từ năm 1941.

B.

Liên Xô nhanh chóng khôi phục đất nước do bị chiến tranh tàn phá.

C.

Xây dựng nên kinh tế mạnh, đủ sức cạnh tranh với Mĩ.

D.

Đưa Liên Xô trở thành cường quốc thế giới.

Đáp án và lời giải
Đáp án:B
Lời giải:

Phương pháp: Sgk 12 trang 10, suy luận Cách giải: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô là nước chịu tổn thất nặng nề nhất - Khoảng 27 triệu người chết - 1710 thành phố - hơn 7 vạn làng mạc Gần 32000 xí nghiệp bị tàn phá nặng nề => Nhân dân Liên Xô bước vào công cuộc khôi phục kinh tế bằng kế hoạch 5 năm đầu tiên (1946-1950).Đáp án đúng là B!

Câu hỏi thuộc đề thi sau. Bạn có muốn thi thử?

Bài tập trắc nghiệm 60 phút LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU (1945 - 1991), LIÊN BANG NGA (1991- 2000) - Lịch sử 12 - Đề số 4

Làm bài

Chia sẻ

Một số câu hỏi khác cùng bài thi.

Một số câu hỏi khác có thể bạn quan tâm.

Liên Xô

Mục 1

1. Công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1945-1950)

* Tình hình Liên Xô sau Chiến tranh:

- Chiến thắng, phải chịu những tổn thất hết sức nặng nề.

+ Hơn 27 triệu người chết, 1710 thành phố, hơn 70 000 làng mạc, gần 32 000 nhà máy, xí nghiệp với 65 000 km đường sắt bị tàn phá.

+ Lãnh thổ đất nước thuộc phần châu Âu hầu như hoang tàn, đổ nát.

+ Nền kinh tế Liên Xô phát triển chậm lại tới 10 năm.

Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

Thiệt hại nặng nề của Liên Xô sau Chiến tranh thế giới thứ hai

* Công cuộc khôi phục kinh tế:

- Từ đầu năm 1946, Đảng và Nhà nước Xô viết đã đề ra kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế đất nước với kế họach 5 năm lần thứ tư (1946 - 1950).

- Nnhân dân Liên Xô đã sôi nổi thi đua, lao động quên mình để thực hiện kế hoạch.

- Kết quả: kế hoạch 5 năm lần thứ tư được hoàn thành thắng lợi, vượt mức trước thời hạn 9 tháng. Các chỉ tiêu chính đều vuợt mức kế hoạch dự định.

+ Năm 1950, sản xuất công nghiệp tăng 73% (kế hoạch dự định tăng 48%), hơn 6 000 nhà máy được khắc phục và xây dựng mới đã đi vào hoạt động.

+ Nông nghiệp vượt mức trước chiến tranh.

+ Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.

+ Khoa học - kĩ thuật có sự phát triển vượt bậc. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền hạt nhân của Mĩ.

Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

Quả bom hạt nhân đầu tiên của Liên Xô

Mục 2

2. Tiếp tục công cuộc xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (từ năm 1950 đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX)

- Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội với việc thực hiện các kế hoạch dài hạn: kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1951 - 1955), lần thứ sáu (1956 - 1960) và kế hoạch 7 năm (1959 - 1965),...

- Phương huớng chính của các kế hoạch:

+ Tiếp tục ưu tiên phát triển công nghiệp nặng - nền tảng của nền kinh tế quốc dân.

+ Thực hiện thâm canh trong sản xuất nông nghiệp.

+ Đẩy mạnh tiến bộ khoa học - kĩ thuật, tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước.

* Kết quả:

- Trong hai thập niên 50 và 60 của thế kỉ XX, nền kinh tế Xô viết tăng trưởng mạnh mẽ.

- Công nghiệp:sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 9,6%. Liên Xô đã trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới sau Mĩ, chiếm khoảng 20% sản lượng công nghiệp của toàn thế giới.

- Khoa học - kĩ thuật:

+ Năm 1957, Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo lên khoảng không vũ trụ, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người.

Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

Vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Liên Xô

+ Năm 1961, phóng con tàu “Phương Đông” đưa nhà du hành vũ trụ Ga-ga-rin lần đầu tiên bay vòng quanh Trái Đất và cũng là nuớc dẫn đầu thế giới về những chuyến bay dài ngày trong vũ trụ...

- Về đối ngoại:

+ Chủ trương duy trì hoà bình thế giới, thực hiện chính sách chung sống hoà bình, quan hệ hữu nghị với tất cả các nước;

+ Tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập tự do của các dân tộc bị áp bức. Liên Xô trở thành chỗ dựa vững chắc của hoà bình và cách mạng thế giới.

ND chính

Liên Xô từ năm 1945 đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX:

- Công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1945-1950).

- Tiếp tục công cuộc xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (từ năm 1950 đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX).

Sơ đồ tư duyLiên Xô và các nước Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX

Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

Loigiaihay.com

  • Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

    Đông Âu

    Tóm tắt mục II. Đông Âu. Sự ra đời của các nước dân chủ nhân dân Đông Âu.

  • Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

    Sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa

    Tóm tắt mục III. Sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa. Khi các nước Đông Âu bắt tay vào công cuộc

  • Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

    Lý thuyết Liên Xô và các nước Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX

    Lý thuyết Liên Xô và các nước Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX

  • Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

    Công cuộc khôi phục nền kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh ở Liên Xô diễn ra và đạt kết quả như thế nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 4 SGK Lịch sử 9

  • Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950

    Hãy nêu những thành tựu chủ yếu của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1950 đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 5 SGK Lịch sử 9

Con đường trở thành siêu cường của Liên Xô

NGUYỄN VĂN TOÀN (Tổng hợp)
Thứ Sáu, 26-03-2021, 15:51
+ | Print
Vì sao Liên Xô phải bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế trong những năm 1945 đến 1950
Niềm phấn khởi tự hào của người dân Liên Xô trong giai đoạn phát triển kinh tế rực rỡ. Ảnh: GETTY

Ngày 27-7-2015, Yevgeny Fyodorov - Phó Chủ tịch Duma quốc gia Nga (Hạ viện Nga) cho rằng, Liên Xô (trước đây) đóng góp tới 22% GDP toàn cầu, nhưng bây giờ nước Nga chỉ đóng góp 2%. Ông Fyodorov kêu gọi tái lập Liên bang Xô-viết để đối đầu sự bao vây, cô lập của phương Tây và Mỹ. Ngày 2-3-2018, tại Kaliningrad, khi được phóng viên một tờ báo trong nước hỏi rằng: “Nếu có cơ hội, ông muốn thay đổi điều gì trong lịch sử của nước Nga?”, Tổng thống Nga Vladmir Putin trả lời sẽ tìm cách ngăn Liên Xô tan rã.

Tinh thần tự cường

Trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917, nước Nga lạc hậu hàng chục năm so các nước phát triển khác. Hầu như tất cả ngành công nghiệp chủ yếu của Nga nằm trong tay tư bản nước ngoài và ngay từ năm 1890, tư bản nước ngoài chiếm tới 47% vốn đầu tư ở Nga. Trên thực tế, vào năm 1914, dù là một đất nước chiếm một phần sáu diện tích thế giới nhưng tổng sản lượng công nghiệp của nước Nga chỉ chiếm 4% tổng sản lượng công nghiệp toàn cầu.

Trong bài “Gửi nông dân nghèo” viết năm 1903, lãnh tụ V.I.Lenin đã từng khẳng định: “Phương sách duy nhất để làm cho nhân dân lao động hết cùng khổ là thay đổi, từ dưới lên trên, chế độ hiện nay trên toàn quốc và lập chế độ xã hội chủ nghĩa”. Đặc biệt đối với giai cấp công nhân, Lenin khẳng định: “Đến khi đó, của cải sẽ tăng lên còn rất nhanh chóng hơn nữa, vì công nhân lao động cho bản thân mình, sẽ làm tốt hơn là làm cho bọn tư bản, ngày lao động sẽ ngắn hơn, tình cảnh của công nhân sẽ khá hơn, tất cả đời sống của họ sẽ hoàn toàn thay đổi”.

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, nước Nga Xô-viết ra đời, bắt đầu thực thi “Sắc lệnh ruộng đất”. Nông dân đã nhận được miễn phí hơn 150 triệu ha ruộng đất từ giai cấp địa chủ, được xóa tiền nợ. Một vấn đề quan trọng nhằm cải thiện đời sống nhân dân lao động là cần phải nâng cao năng suất lao động. Như V.I.Lenin nhận định: “Công nhân tự nguyện tự giác, liên hợp với nhau, sử dụng
kỹ thuật hiện đại thì mới có thể tạo ra năng suất lao động cao hơn”.

Joseph Stalin, người kế tục sự nghiệp của V.I.Lenin từng chỉ rõ: “Biến nước Nga từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp có thể tự lực sản xuất thiết bị cần thiết, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu thiết bị thành một nước chế tạo được các thiết bị ấy. Đó là điều bảo đảm sự độc lập kinh tế của nước ta và không phụ thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa”. Từ tinh thần đó, Liên Xô quyết tâm trở thành một quốc gia tự cường.

Trong 13 năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đứng đầu là Joseph Stalin, Liên Xô đã xây dựng được 9.000 xí nghiệp lớn, trang bị kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành công nghiệp mới quan trọng đã ra đời. So năm 1913, đến năm 1940, sản lượng công nghiệp của Liên Xô tăng hơn 12 lần; tỷ trọng công nghiệp đã chiếm ưu thế trong nền kinh tế quốc dân (hơn ba phần tư tổng sản lượng); sản lượng của ngành chế tạo máy tăng 35 lần; sản lượng điện tăng 24 lần…

Nếu năm 1913, tổng sản lượng công nghiệp của nước Nga đứng hàng thứ năm trên thế giới (sau Mỹ, Anh, Pháp và Đức) thì đến năm 1937, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã vượt lên đứng hàng thứ hai trên thế giới (chỉ sau Mỹ). Tỷ trọng công nghiệp của Liên Xô trong sản lượng công nghiệp thế giới đã lên đến 14%. Trong lịch sử, để trở thành một nước công nghiệp, nước Anh cần 200 năm, nước Mỹ cần 120 năm, Nhật Bản cần 40 năm, trong khi Liên Xô chỉ cần 18 năm để hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hóa của mình. Đây là tốc độ công nghiệp hóa nhanh nhất mà thế giới từng ghi nhận. Thế và lực của Liên Xô tăng lên nhanh chóng trên trường quốc tế.

Cũng từ nền tảng thành tựu nói trên, Liên Xô đã đứng vững trong cuộc chiến tranh Vệ quốc (1941-1944). Sau chiến tranh, dưới sự chỉ đạo của quyết định “Về những biện pháp cấp bách khôi phục kinh tế ở các vùng được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của phát-xít” của Joseph Stalin, đến cuối năm 1945, Liên Xô đã khôi phục được 7.500 nhà máy và xí nghiệp, hàng nghìn nông trường quốc doanh và hợp tác xã.

Thời kỳ 1945 - 1953 là giai đoạn mà niềm phấn khởi, tự hào của người dân Liên Xô dâng cao khi nền kinh tế đã được hồi phục và phát triển nhanh chóng. Thu nhập quốc dân từ năm 1940 đến năm 1950 tăng 64%. Năm 1954, Liên Xô là quốc gia đầu tiên có nhà máy điện nguyên tử. Hai sự kiện này đặt dấu chấm hết cho sự độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ. Thủ tướng Anh Winston Churchill (1874-1965) cũng phải đành thừa nhận: “Stalin đã tiếp nhận một nước Nga đi giày cỏ và để lại một nước Nga với vũ khí hạt nhân”.

Trở thành siêu cường

Sau khi Joseph Stalin mất (năm 1953), Liên Xô tiếp tục đi theo con đường tự cường. Đặc biệt, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev (1906 -1982) đã tiến hành cải cách kinh tế và áp dụng những cải cách này trong kế hoạch 5 năm lần thứ VIII (1965 - 1969). Kết quả đạt được của kế hoạch 5 năm lần thứ VIII rất khả quan khi sản lượng công nghiệp tăng 50%, 1.900 xí nghiệp công nghiệp mới được xây dựng; chưa bao giờ nông nghiệp được cung cấp nhiều máy móc như giai đoạn này. Các kế hoạch 5 năm giai đoạn 1970 - 1985, Liên Xô tiếp tục thu được nhiều thành tựu quan trọng. Đặc biệt, đến năm 1972, tổng sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã tăng 321 lần so năm 1922 (năm Liên Xô thành lập), thu nhập quốc dân cũng tăng tới 112 lần.

Trong thập niên 70 thế kỷ 20, Liên Xô được lợi rất lớn từ nguồn thu do xuất khẩu dầu mỏ đem lại và cũng là một trong nguồn lực chính giúp Liên Xô nâng cao phúc lợi của người dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, mở rộng ảnh hưởng quốc tế. Cụ thể, năm 1975, Liên Xô sản xuất được 490 triệu tấn dầu thô và vượt Mỹ - vốn là một trong những nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới thời đó. Cũng trong giai đoạn này, Liên Xô có nền khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ với nhiều ngành khoa học đứng hàng đầu thế giới, điển hình như khoa học vũ trụ. Công nghệ sản xuất ở Liên Xô cũng được chú trọng đổi mới và phát triển. Chính vì thế, Liên Xô phát triển khá ổn định, đổi mới nhanh chóng, thực hiện cơ giới hóa và điện khí hóa; ngành chế tạo máy luôn giữ vai trò chủ đạo và đứng hàng đầu thế giới.

Về mặt quốc phòng, đến giữa những năm 70 thế kỷ 20, Liên Xô đã đạt thế cân bằng về chiến lược trong lĩnh vực vũ khí với phương Tây. Chi phí quốc phòng của Liên Xô năm 1974 đạt con số 105 tỷ USD, vượt Mỹ (85 tỷ USD). Về lực lượng quân sự, khối Warsaw (khối Hiệp ước Warsaw, Liên Xô tham gia khối này) đã vượt lên khối NATO (Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương).

Vào đầu những năm 80 thế kỷ 20, cứ năm người lao động ở Liên Xô thì có một người tốt nghiệp đại học hoặc các trường kỹ thuật. Nhịp độ phát triển của ngành đại học và trung học của Liên Xô đã vượt xa các nước tư bản. Số sinh viên của Liên Xô lớn gấp hai lần số sinh viên của 15 nước châu Âu cộng lại. Mạng lưới thư viện và các hoạt động thông tin tư liệu không ngừng được mở rộng để phục vụ hệ thống giáo dục quốc dân và nâng cao dân trí. Năm 1983, Liên Xô đã có 134 nghìn thư viện công cộng với hơn hai tỷ đầu sách.

Về đối ngoại, Đảng và Nhà nước Xô-viết đã thực hiện chính sách nhằm mục tiêu chủ yếu và phương hướng cơ bản gồm: Bảo đảm các điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; loại trừ nguy cơ chiến tranh, duy trì hòa bình và an ninh chung; mở rộng việc hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa; phát triển quan hệ hữu nghị, bình đẳng với các nước tư bản chủ nghĩa trên cơ sở chung sống hòa bình, hợp tác thiết thực, cùng có lợi...

Nhà kinh tế học Mỹ Wassily Leontief, người đoạt Giải Nobel Kinh tế năm 1973, từng ca ngợi nền kinh tế kế hoạch của Liên Xô do đã đạt được bước đại nhảy vọt về công nghiệp trong những năm 30 thế kỷ 20. Leontief nhận định, vì có nền kinh tế kế hoạch mà Liên Xô đã nhanh chóng phục hồi sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945), cho rằng nhờ nền kinh tế kế hoạch đã giúp Liên Xô đạt được tốc độ tăng trưởng tương đương Mỹ, thậm chí còn vượt cả Tây Âu vào thập niên 70 và đầu thập niên 80 thế kỷ 20.

Facebook Twitter Link EmailQuay lại