3 2 1930 là ngày gì năm 2024

thế kỷ XIX, các nước tư bản đế quốc phương Tây một mặt thực hiện chính sách tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước, mặt khác, đẩy mạnh xâm lược và áp bức Nhân dân các dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi và Mỹ - La tinh. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa. Năm 1917, giữa vòng vây của chủ nghĩa tư bản đế quốc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng Bolshevik (Bô-sê-vích) và Vladimir Ilyich Lenin (V.I.Lênin), cuộc Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi đã đưa chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Để lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới, tháng 3/1919, V.I.Lênin đã thành lập ra Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ở trong nước, từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến độc lập, có chủ quyền thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế điển hình “chia để trị”, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm; chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa. Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.

Chính sách thống trị tàn bạo đó của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam bị phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt; phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau; các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp; do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.

Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cách mạng. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của Nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên, do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như: phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước và tổ chức tiền phong để lãnh đạo cách mạng.

Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiệm vụ tìm ra con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc đặt ra vô cùng cấp bách, “độc lập, tự do là khát vọng của cả dân tộc Việt Nam”, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ (cứu nước theo ngọn cờ phong kiến hoặc dân chủ tư sản) ngày 05/6/1911 với tinh thần yêu nước và nhận thức vượt thời đại, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Từ năm 1911-1917, với khát vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, Người vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận, hòa mình vào phong trào của công nhân, nhân dân lao động ở nhiều nước trên thế giới như: Singapo, Côlômbô thuộc Sri Lanka, Diibouti, Port Said và Marsile, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Rêuyniông, Xênêgan,… Đến đâu Người cũng thấy nhân dân lao động sống trong cảnh nghèo khổ dưới sự bóc lột, áp bức dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Người đồng cảm sâu sắc với số phận khốn cùng của nhân dân các nước thuộc địa, qua đó rút ra kết luận: “Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột...” và rút ra chân lý “chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa”.

Năm 1917, Người quyết định trở lại Pháp hoạt động trong phong trào công nhân và tham gia Đảng Xã hội Pháp để tìm hiểu về Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác - Lênin. Tháng 6/1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước có mặt tại Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị Versailles (Véc-xây) “Bản yêu sách của Nhân dân An Nam” gồm 08 điểm đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của Việt Nam. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, phong kiến, đó là “con đường cách mạng vô sản” theo Cách mạng tháng Mười Nga, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân tộc ta. Nhớ lại thời điểm đó, Người nói: “Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Tháng 12/1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp, Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành Người đảng viên Cộng sản đầu tiên của Việt Nam, hoàn toàn tin theo V.I.Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga.

Từ năm 1920-1927, qua thời gian ở Pháp, Liên Xô và Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị thông qua sách báo như: “Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách Mệnh, Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân, Sự thật, Tạp chí Thư tín quốc tế”,... và chuẩn bị về tổ chức như: Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925), Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông,... cho việc thành lập chính Đảng vô sản ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Người mở các lớp huấn luyện, đào tạo được 75 hội viên, một số học viên tiêu biểu như: Trần Phú, Lê Hồng Phong,… được cử đi học ở trường Lục quân Hoàng phố (Trung Quốc) và trường đại học Phương Đông (Liên Xô), số còn lại đưa về nước, trực tiếp hoạt động trong các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ. Trong những năm 1928-1929, Nguyễn Ái Quốc đã qua Xiêm (vùng Đông Bắc Thái Lan) để xây dựng tổ chức cách mạng và bắt liên lạc để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước. Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.

Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, năm 1929, ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam nối tiếp nhau ra đời, đó là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động, đòi hỏi phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất để chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam. Trước yêu cầu cấp bách đó, từ ngày 06/01-07/02/1930, tại bán đảo Cửu Long gần Hương Cảng (thuộc Hồng Kông, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc với tư cách là phái viên thay mặt cho Quốc tế Cộng sản đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 05 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đã giải quyết được những vấn đề cơ bản, cấp bách và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản;… Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông;… thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…”[1]. Cương lĩnh là sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến; trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết toàn dân và lãnh đạo Nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp để đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự ra đời của Đảng mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử trọng đại, là sự lựa chọn dứt khoát và đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc, của Đảng và Nhân dân ta để có độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Hội nghị thành lập Đảng mang tầm vóc, ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng, nên tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tháng 9/1960 đã quyết định “từ nay trở đi sẽ lấy ngày 03/02 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”[2].

3 2 1930 là ngày gì năm 2024

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 03/2/1930 (Ảnh chụp lại tranh vẽ của họa sĩ Phi Hoanh tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam)

Trước khi Đảng ra đời, cách mạng Việt Nam đang khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo. Các nhà yêu nước thường chỉ kêu gọi Nhân dân ta chống Pháp mà chưa chú ý đến quyền lợi của nông dân, do vậy chưa lôi cuốn được đông đảo nông dân tham gia, chưa thực hiện được liên minh công nông, chưa xác định được động lực cơ bản của cách mạng, chưa có phương pháp đấu tranh phù hợp,… nên các phong trào yêu nước dù diễn ra sôi nổi nhưng cuối cùng đều thất bại, bị thực dân Pháp dìm trong biển máu.

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị cách mạng đúng đắn, sáng tạo và khoa học đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam, xác định rõ được hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, từ đó, đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc giành độc lập dân tộc, chống phong kiến đem lại ruộng đất cho dân cày, giải quyết được vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đảng đề ra khẩu hiệu “độc lập dân tộc và người cày có ruộng” nên đã lôi cuốn đông đảo nông dân tham gia, xây dựng được lực lượng cách mạng mới mà nòng cốt là liên minh công nông, đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc. Đảng đã sử dụng phương pháp cách mạng là bạo lực vũ trang của quần chúng, kết hợp xây dựng lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vĩ đại vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; gắn liền với công lao và vai trò to lớn, sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc những năm 20 của thế kỷ XX và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Quốc tế Cộng sản, theo con đường cách mạng vô sản nên đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

Đảng ra đời là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trên chặng đường 94 năm vinh quang của Đảng ta, Đảng đa lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân viết nên những trang sử vàng chói lọi về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam.

Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 03 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là phong trào cách mạng (1930-1931) với đỉnh cao là cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai; dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức Xô Viết; phong trào cách mạng (1930-1931) đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công - nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền. Phong trào dân chủ (1936-1939), bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp... Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945) dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945-1975), Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954). Trong những năm 1945-1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/01/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời, thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”; “Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là một! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Genève (21/7/1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong khi đó, ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Genève, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng; nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của Nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang, tiêu biểu là chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (27/01/1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam; giành đại thắng mùa Xuân năm 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc ngày 30/4/1975, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc, giang sơn nối liền một dải, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, đứng trước những khó khăn chung của thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Đảng ta đã vững vàng lãnh đạo quân và dân ta bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc năm 1979.

Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, từ đống đổ nát của cuộc chiến tranh khốc liệt, Đảng ta bắt tay vào lãnh đạo công cuộc xây dựng cuộc sống mới và phát triển kinh tế - xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Dù có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm, nhưng theo quy luật vận động của lịch sử và do có bản lĩnh vững vàng, thực sự khiêm tốn, cầu thị, được Nhân dân tin yêu và ủng hộ, Đảng ta đã sớm nhận thức được những hạn chế, khiếm khuyết của mình, vấp ngã lại đứng lên, không giấu giếm lỗi lầm, kiên quyết khắc phục sửa chữa, vì dân mà hành động để mở ra một hướng đi mới, đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/QĐ-CP, ngày 21/01/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (8/1986) về 03 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...

Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.

Qua 33 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 38 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Trải qua 13 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XIII (2021) Đảng ta có khoảng 5,0 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là minh chứng hùng hồn, đầy sức thuyết phục về sự đúng đắn của con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn, minh chứng cho vai trò và năng lực cầm quyền, lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, Việt Nam đã và đang khẳng định được uy tín ngày càng vững chắc trên trường quốc tế, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[3].

94 năm có Đảng, dù trải qua những lần đổi tên cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử với các tên gọi khác nhau như: Tháng 10/1930, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; tháng 02/1951, đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam; tháng 12/1976, đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng bản chất là không thay đổi, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, dân tộc ta, đất nước ta đã đi những bước đi thần kỳ trên con đường phát triển như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Công ơn Đảng thật là to. Lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”. Những thắng lợi có tầm vóc lịch sử của Cách mạng Việt Nam trong quá khứ và những thành tựu của công cuộc đổi mới hiện nay dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng, không những là niềm tự hào của toàn dân, toàn Đảng mà còn để lại những ấn tượng sâu sắc, những thiện cảm tốt đẹp trong đánh giá của đồng chí, bạn bè quốc tế, trong lương tâm, ký ức và trong trái tim nhân loại. Có được những thành tựu vĩ đại đó, 94 năm qua, để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng ta luôn thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Đảng ta vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của Nhân dân, của dân tộc, Đảng không có lợi ích gì khác”, mà chỉ có trọng trách thiêng liêng là phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động, và cho cả dân tộc Việt Nam. Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của mình, chính là bằng phẩm chất, đạo đức cách mạng, bằng bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong, Đảng đã luôn nắm vững, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường lối đúng đắn mang lại lợi ích cho Nhân dân, cho dân tộc, được Nhân dân hết lòng tin yêu, giáo dưỡng, được lãnh tụ Hồ Chí Minh dày công tổ chức rèn luyện và đội ngũ đảng viên qua các thời kỳ đã không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, luôn thể hiện tính tiền phong gương mẫu, bằng trách nhiệm nêu gương của mình để quyết giữ vững bản chất cách mạng của Đảng và danh hiệu cao quý: Đảng là đạo đức, là văn minh, là thống nhất độc lập, là hòa bình ấm no.

Tự hào về sự vĩ đại của Đảng ta, cùng với cả nước, Nhân dân tỉnh Đồng Nai luôn một lòng đi theo Đảng, sát cánh, kề vai, chung tay, góp sức cùng Đảng bộ tỉnh nhà trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ những hạt nhân đầu tiên của chi bộ Bình Phước - Tân Triều (chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên) ra đời tháng 02/1935 đã kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng ở Biên Hòa, Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa được thành lập vào tháng 02/1937. Tỉnh ủy lâm thời ra đời là bước ngoặt quan trọng, thể hiện sự lớn mạnh của tổ chức đảng và đảng viên ở Biên Hòa, làm tiền đề cho Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi ở Biên Hòa. Theo yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng mới ở mỗi thời kỳ lịch sử mà tên gọi của Tỉnh ủy cũng có những thay đổi cho phù hợp với quá trình chia tách và sáp nhập địa giới hành chính như: Tỉnh ủy Biên Hòa, Tỉnh ủy Thủ Biên, Tỉnh ủy Long Bà Biên,… Tỉnh ủy Đồng Nai (từ năm 1976 đến nay). Trong từng thời kỳ lịch sử, Tỉnh ủy Đồng Nai đã linh hoạt vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng vào thực tiễn của tỉnh, lãnh đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và chuẩn bị mọi mặt về cơ sở, tổ chức và lực lượng cách mạng, phát huy cao độ truyền thống vùng đất “Miền Đông gian lao mà anh dũng”, góp phần cùng cả nước giành nhiều thắng lợi trong cuộc kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay, Tỉnh ủy Đồng Nai tiếp tục lãnh đạo Nhân dân thực hiện thắng lợi các nghị quyết đề ra và đạt nhiều thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh,… Trải qua 11 kỳ đại hội từ năm 1976 đến nay, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, nâng tầm trí tuệ, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, kiên định niềm tin sắt đá vào lý tưởng cộng sản, gắn bó mật thiết với Nhân dân, bám sát thực tiễn, đề cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, phát huy sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng; đưa tỉnh Đồng Nai có bước phát triển vượt bậc. Kết quả đó khẳng định, Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà đã và đang kế thừa, phát huy các giá trị lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc ta, của Đảng ta. Ý thức sâu sắc về sự kế tục trung thành đó, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tiến công, chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Nhân dân trong tỉnh sẽ vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định, tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy các giá trị văn hóa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng và phát triển tỉnh Đồng Nai phát triển toàn diện.

Tự hào với những thắng lợi đã đạt được, hướng tới tương lai tươi sáng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vững tay lái, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Mừng Đảng quang vinh, mừng Xuân Giáp Thìn và kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2024) là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong tỉnh ôn lại truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Đồng Nai, tiếp tục kế thừa, phát huy truyền thống hào hùng, bất khuất của dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, hòa bình, thống nhất. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng.

3 2 1930 là ngày gì năm 2024

Đồng chí Phan Văn Trang – Nguyên Bí thư Tỉnh ủy phát biểu tại buổi Họp mặt các đồng chí nguyên lãnh đạo tỉnh qua các thời kỳ nhân 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2024)

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập (2011), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 3, tr.1-2.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập (tập 21), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.904.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.25

Ngày 3 tháng 2 là ngày nào?

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 (3/2) là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước VN.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ngày 3 tháng 2 năm 1930 đã thống nhất đặt tên đáng là gì?

Hội nghị quyết định hợp nhất ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (17/6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (11/1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (01/01/1930) thành một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là vào ngày 03 tháng 02 năm 1930.

Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản có bao nhiêu đại biểu tham dự?

Hội nghị bàn thảo và đi đến việc hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản trong nước Việt Nam và Đông Dương: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Hội nghị với sự tham gia của 2 đại diện An Nam Cộng sản Đảng, 2 đại diện Đông Dương Cộng sản Đảng. Tổng số Đảng viên là 211 người.

Quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương khi nào?

Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.