Tạo nên cơn sốt tiếng Anh là gì

Sốt là dấu hiệu y khoa thông thường đặc trưng bởi sự gia tăng nhiệt độ cơ thể cao hơn khoảng dao động bình thường của nhiệt độ cơ thể người là 36.5–37.5 °C (98–100 °F).[1]

Tạo nên cơn sốt tiếng Anh là gì

Một cặp nhiệt độ đo được nhiệt độ là 38.7 °C

Sốt thường là đáp ứng của cơ thể với một bệnh nhiễm trùng, thường kéo dài hơn 2 đến 3 ngày. Ngoài ra, sốt còn có thể do những bệnh không nhiễm trùng khác, tiếp xúc với nước nóng, tập thể dục, sau chích ngừa hoặc khóc nhiều cũng làm tăng thân nhiệt.

Sốt là triệu chứng thông thường của nhiều bệnh:

  • Các bệnh truyền nhiễm như cúm, HIV, sốt rét, hoặc Covid19- SARS-CoV2
  • Các loại viêm khác nhau như nhọt, mụn, trứng cá, hoặc áp xe
  • Các bệnh tự miễn như lupus đỏ, Sarcoidosisban, sarcoidosis
  • Cơ thể phản ứng với sự bất tương hợp giữa các nhóm máu
  • Ung thư
  • Các bệnh rối loạn tiêu hóa như gút hay bệnh ma cà rồng (porphyria)
  • Truyền protein lạ vào cơ thể để gây sốt nhầm mục đích điều trị
  • Tiêm muối dưới da hay tiêm bắp gây ưu trương dẫn đến hủy hoại tổ chức và gây sốt.
  • Mỡ dư thừa chèn vào trung khu thần kinh não bộ gây sốt.

Sốt dai dẳng mà hiện nay y học vẫn chưa tìm được nguyên nhân được gọi là sốt không rõ nguồn gốc.

Sốt gồm ba giai đoạn:

  • Sốt tăng: tăng sản nhiệt, giảm thải nhiệt làm nhiệt độ bên trong cơ thể cao hơn nhiệt độ môi trường. Lúc này, bệnh nhân cảm thấy ớn lạnh, rét run, giảm đổ mồ hôi, da khô và nóng,...
  • Sốt đứng: tỉ lệ sản nhiệt/thải nhiệt = 1, cơ thể vẫn còn lạnh nhưng đã đỡ hơn, thân nhiệt vẫn cao, da khô, không đổ mồ hôi và ít đi tiểu
  • Sốt lui: sản nhiệt giảm, thải nhiệt tăng, lúc này cơ thể bệnh nhân vã mồ hôi nhiều, tiểu nhiều, nền nhiệt cơ thể hạ xuống, cảm thấy nóng

Yếu tố trực tiếp gây ra cơn sốt trong cơ thể là các chất gây sốt nội sinh - là một loại protein được hình thành bên trong cơ thể. Ngày nay người ta đã tìm ra 11 chất gây sốt nội sinh, trong đó phổ biến nhất là các loại interleukin.

Quá trình diễn ra sốt bắt đầu từ lúc tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể và tiết ra các chất gây sốt ngoại sinh (độc tố của vi sinh vật, bản thân tác nhân lạ,...). Chất gây sốt ngoại sinh kích thích các đại thực bào và bạch cầu trung tính tiết ra chất gây sốt nội sinh. Chất này tác động lên trung tâm điều nhiệt của cơ thể làm trung tâm này hoạt hóa acid arachidonic, làm sản sinh monoamin gây thay đổi setpoint (điểm đặt nhiệt) dẫn tới tăng sản nhiệt và giảm thải nhiệt toàn cơ thể, gây ra cơn sốt.

Một con đường khác bắt đầu khi các lympho T kết hợp với kháng nguyên, sẽ tiết ra lymphokin kích hoạt bạch cầu đa nhân và đại thực bào tíết ra chất gây sốt nội sinh. Các diễn tiến tiếp sau đó là tương tự.

  • Thoái hóa glucid diễn ra mạnh mẽ, tăng phân giải glycogen để làm tăng đường huyết, nếu sốt kéo dài sẽ tích nhiều acid lactic gây toan hóa máu
  • Thoái hóa lipid, protid cũng được tăng cường để đáp ứng nhu cầu cơ thể, tạo ra nhiều sản phẩm trung gian gây hại cho nội môi
  • Ngoài ra, cơ thể còn đòi hỏi các vitamin B và C, hormon aldosterol và ADH,...
  • Tăng nhịp tim, tần số mạch đập
  • Tăng thông khí, thở nhanh và sâu
  • Ăn uống không ngon miệng do giảm tiết men và giảm co bóp ống tiêu hóa
  • Đa niệu trong giai đoạn sốt tăng và sốt lui, thiểu niệu trong giai đoạn sốt đứng.
  • Tăng ACTH, tăng chức năng gan, tăng hệ miễn dịch
  • Sốt liên tục: sốt cao kéo dài qua các ngày, thường gặp trong sốt thương hàn, viêm phổi
  • Sốt ngắt quãng: sốt một ngày sau đó hạ trong vài ngày rồi lại sốt trở lại, thường có chu kì gặp trong sốt rét
  • Sốt hồi quy: sốt cao rồi giảm dần, sau đó sốt trở lại, gặp trong nhiễm xoắn khuẩn Lepstopira
  • Sốt dao động: sốt ở một khoảng thời gian nhất định trong ngày, sau đó giảm sốt, gặp trong lao phổi hoặc viêm đường hô hấp trên

Để điều trị sốt đúng cách cần phải biết nguyên nhân gây ra sốt.

Trong hầu hết các trường hợp, ngoại trừ tăng thân nhiệt, thì acetaminophen hoặc ibuprofen đều có thể làm hạ thân nhiệt. Nên cung cấp thêm dịch cho cơ thể qua đường miệng hoặc tiêm tĩnh mạch để chống mất nước nếu cần thiết.

Sốt do nhiễm siêu vi (sốt siêu vi) có thể tự khỏi. Có thể bệnh nhân sẽ được cho những loại thuốc điều trị những triệu chứng đặc biệt khác. Có thể đó là những loại thuốc làm giảm thân nhiệt, trị nghẹt mũi, giảm đau họng hoặc trị sổ mũi. Virus có thể gây nôn ói và tiêu chảy và cần phải truyền dịch qua đường tĩnh mạch cùng với dùng thuốc để làm chậm lại tốc độ tiêu chảy và nôn ói. Một số ít loại nhiễm siêu vi có thể được điều trị bằng thuốc kháng siêu vi, trong đó có Herpes và influenza virus. Nếu bệnh nhân có thể uống nước được và triệu chứng nhẹ, bệnh nhân có thể về nhà được mà không cần ở lại bệnh viện.

Những bệnh nhiễm vi khuẩn cần phải có loại thuốc kháng sinh đặc hiệu để điều trị tùy thuộc và loại vi khuẩn được tìm thấy và nơi ở của nó trong cơ thể người. Các bác sĩ sẽ xác định xem người bệnh có cần phải nhập viện không hay có thể ra về được. Quyết định tùy thuộc vào bệnh hiện tại và những bệnh kèm theo khác của bệnh nhân.

Hầu hết những trường hợp nhiễm nấm đều có thể được điều trị bằng thuốc kháng nấm.

Sốt do thuốc có thể giảm sau khi ngưng thuốc.

Nếu bị huyết khối thuyên tắc, bạn nên đến bệnh viện và sử dụng thuốc tán huyết.

Đối với bệnh nhân bị sốt do tiếp xúc với nhiệt độ nóng ở môi trường cần phải được làm mát bằng cách cởi bỏ hết quần áo, mở quạt có phun sương, theo dõi sát dấu hiệu sinh tồn.

  1. ^ Karakitsos D, Karabinis A (2008). “Hypothermia therapy after traumatic brain injury in children”. N. Engl. J. Med. 359 (11): 1179–80. PMID 18788094.

  • Rhoades, R. and Pflanzer, R. Human physiology, xuất bản lần 3, chương 27 Regulation of body temperature, tr. 820 Clinical focus: pathogenesis of fever. ISBN 0-03-005159-2
  • What to do if your child has a fever Lưu trữ 2007-10-20 tại Wayback Machine from Seattle Children's Hospital
  • Fever and Taking Your Child's Temperature
  • US National Institute of Health factsheet
  • BUPA factsheet Lưu trữ 2006-07-06 tại Wayback Machine

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Sốt&oldid=68334280”

Lịch sử của bệnh nên bao gồm cường độ và thời gian sốt và phương pháp đo nhiệt độ. Cơn sốt rét run (nghiêm trọng, rung lắc, hai hàm răng đập vào nhau- không chỉ có cảm giác lạnh) cho thấy sốt do nhiễm trùng nhưng không đặc hiệu. Đau là một đầu mối quan trọng xác định vị trí nhiễm trùng; bệnh nhân nên được hỏi về đau ở tai, đầu, cổ, răng, cổ họng, ngực, bụng, sườn, trực tràng, cơ và khớp.

Các triệu chứng cục bộ khác bao gồm ngạt mũi và/hoặc chảy dịch, ho, tiêu chảy và các triệu chứng tiết niệu (tần số, mót tiểu, chứng khó tiểu). Sự có mặt của phát ban (bao gồm cả tự nhiên, vị trí, và thời điểm bắt đầu có liên quan đến các triệu chứng khác) và hạch bạch huyết có thể giúp ích.

Nên xác định sự tiếp xúc với nguồn lây và chẩn đoán của họ.

Khám toàn thể giúp xác định các triệu chứng của bệnh mãn tính, bao gồm cơn sốt hồi quy, đổ mồ hôi ban đêm và giảm cân.

Tiền sử bệnh nên đặc biệt bao gồm những điều sau đây:

  • Các điều kiện được biết đến có xu hướng gây nhiễm (ví dụ như nhiễm HIV, tiểu đường, ung thư, ghép tạng, bệnh hồng cầu hình liềm, rối loạn van tim - đặc biệt nếu có van nhân tạo)

  • Các rối loạn khác có thể gây sốt (ví dụ, thấp khớp, SLE, gout, bệnh sarcoidosis, cường giáp, ung thư)

Hỏi về du lịch gần đây bao gồm địa điểm, thời gian kể từ khi trở về, địa phương (ví dụ ở nước láng giềng, chỉ ở các thành phố), tiêm chủng trước khi đi du lịch, và bất kỳ sử dụng thuốc chống sốt rét dự phòng (nếu cần).

Tất cả bệnh nhân cần được hỏi về các yếu tố phơi nhiễm. Các ví dụ bao gồm thực phẩm không an toàn (ví dụ như sữa và các sản phẩm sữa không được khử trùng, thịt sống hoặc chưa nấu chín, cá, động vật có vỏ) hoặc nước, côn trùng cắn, tiếp xúc động vật, tiếp xúc với nghề nghiệp hoặc thể thao dưới nước (ví dụ như săn bắn, đi bộ đường dài, thể thao dưới nước).

Cần lưu ý tới lịch sử tiêm vắc xin, đặc biệt là chống lại viêm gan A và B và chống lại các sinh vật gây viêm màng não, cúm, hoặc nhiễm khuẩn phế cầu.

Lịch sử dùng thuốc nên bao gồm các câu hỏi cụ thể về các vấn đề sau:

  • Thuốc làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh (ví dụ, corticosteroid, thuốc chống TNF, hóa trị liệu và thuốc chống trầm cảm, các thuốc ức chế miễn dịch khác)

  • Sử dụng bất hợp pháp các loại thuốc tiêm (gây ra viêm nội tâm mạc, viêm gan, nhiễm trùng tắc mạch phổi, da và các mô mềm)