Chính sách đối ngoại chủ yếu của Mỹ sau chiến tranh lạnh 1991

ADSENSE/

Câu hỏi này thuộc đề thi trắc nghiệm dưới đây, bấm vào Bắt đầu thi để làm toàn bài

CÂU HỎI KHÁC

Trong gần hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Mỹ và Nga dần hướng sự quan tâm của mình đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, nhằm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu dài. Còn đối với Việt Nam, chính sách đối ngoại của Mỹ và Nga có sự thay đổi gì so với trong thời kỳ Chiến tranh lạnh? Liệu Việt Nam có thể trở thành đối tác bình đẳng được với Nga và Mỹ trong quan hệ đối ngoại không? Hay trong tương lai, quan hệ song phương của Mỹ và Nga đối với Việt Nam sẽ như thế nào?... Những câu hỏi này sẽ lần lượt được trả lời trong các chương của cuốn sách Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ và Nga đối với Việt Nam thời kỳ sau Chiến tranh lạnh do Tiến sĩ Bùi Thị Thảo, giảng viên Trường Đại học Sư phạm Huế, biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản. Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc một bức tranh khách quan, sinh động và tương đối toàn diện về tiến trình phát triển chính sách đối ngoại của Mỹ và Nga đối với Việt Nam trong và sau Chiến tranh lạnh.

Bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những thay đổi nhanh chóng, phức tạp và có những yếu tố khó lường. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu kéo theo đối đầu với hai cực Xô - Mỹ cũng chấm dứt. Cục diện thế giới và quan hệ chính trị quốc tế đã thay đổi về cơ bản, dẫn đến hình thành trật tự thế giới mới và tập hợp lực lượng mới. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu,từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập, chuyển sang trạng thái mất cân bằng có lợi cho Mỹ và phương Tây. Xuất hiện trật tự thế giới mới: “Nhất siêu (Mỹ), đa cường, đa trung tâm”. Và tình hình quốc tế đã không phát triển một cách hòa bình, ổn định như người ta mong đợi. Sự đối đầu Đông - Tây và hệ tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế… đã từng chi phối đời sống quốc tế suốt nửa thế kỷ Chiến tranh lạnh, nay đã chuyển hóa dưới hình thức khác, và nổi lên những mâu thuẫn mới. Đó là mâu thuẫn giữa các nước lớn xung quanh việc thiết lập một trật tự thế giới mới. Mỹ vẫn tuyên bố về một trật tự thế giới đơn cực do Mỹ đứng đầu, lãnh đạo thế giới. Nhưng thực tế đã không diễn ra như ý muốn của Mỹ. Liên Xô tan rã, nhưng Liên bang Nga vẫn tiếp tục tồn tại và tiềm lực quân sự kế thừa Liên Xô, không phải là một cường quốc bại trận để chấp nhận một trật tự thế giới do Mỹ sắp đặt. Các trung tâm kinh tế, các cường quốc khu vực như Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Nhật Bản, đã không ngừng lớn mạnh và luôn tạo cho mình một vị thế đáng kể để chia sẻ quyền lực, chi phối đời sống chính trị thế giới. Chủ nghĩa đơn phương của Mỹ đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của các nước lớn như Nga, Trung Quốc, Pháp, Đức… và của các nước nhỏ trên thế giới. Và thế giới đều mong muốn xây dựng một “trật tự thế giới đa cực”. Trong thế giới đa cực đó, các mâu thuẫn như mâu thuẫn lợi ích dân tộc, mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, mâu thuẫn về hệ tư tưởng, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển… vẫn tồn tại, với những biểu hiện mới, đã tác động đến chiều hướng phát triển của quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh. Trật tự đa trung tâm hình thành, trong đó, các nước đang và sẽ chuyển từ đối đầu sang đối thoại, bình thường hóa, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ quốc tế phù hợp với xu thế hòa dịu trên quy mô toàn cầu.

Chính vì vậy, duy trì hòa bình ổn định trong môi trường quốc tế mới và tìm kiếm vị trí có lợi nhất trong đó là mục tiêu chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong xu thế đó, những điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước lớn, như Mỹ và Nga, luôn có sức lan tỏa mạnh mẽ và tác động sâu sắc đến tình hình chính trị quốc tế.

Trên cơ sở phân tích so sánh, cuốn sách “Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ và Nga đối với Việt Nam thời kỳ sau Chiến tranh lạnh” không chỉ trình bày hệ thống sự điều chỉnh chính sách của mỗi cường quốc Mỹ, Nga đối với Việt Nam qua hai thời kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh, mà còn chỉ ra và đi sâu phân tích những tương đồng và khác biệt trong chính sách của mỗi nước đối với Việt Nam. Đây là nội dung quan trọng, không chỉ cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết căn bản, có hệ thống về sự điều chỉnh chính sách của Mỹ, Nga đối với Việt Nam mà ở góc độ nhất định, mang lại những hàm ý sâu sắc cho việc hoạch định chính sách của nước ta một cách hiệu quả, phù hợp với từng đối tác trong bối cảnh mới.

Với kết cấu chặt chẽ, nội dung cuốn sách được chia thành ba chương: Chương I: Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Việt Nam thời kỳ sau Chiến tranh lạnh (1991-2015); Chương II: Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nga đối với Việt Nam thời kỳ sau Chiến tranh lạnh (1991-2015); và Chương III: Một số nhận xét về sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ và Nga đối với Việt Nam.

Chương I của cuốn sách tập trung phân tích sự điều chỉnh liên tục, linh hoạt trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam từ dè dặt giữa trừng phạt và hòa giải (G.H.W. Bush) sang chính sách hợp tác với việc lần đầu tiên xác định “quan hệ đối tác” với Việt Nam (B. Clinton) đến chính sách hợp tác ở mức độ cao hơn và hướng đến cơ chế “đối tác ổn định, bền vững” (G.W. Bush). Quá trình điều chỉnh tuy trải qua nhiều thăng trầm và vẫn còn tiếp diễn nhưng sự điều chỉnh lớn nhất trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam từ sau Chiến tranh lạnh là chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác đa cấp độ. Sự phát triển trong chính sách trên cho thấy, mặc dù vẫn tồn tại một số khác biệt trong quan hệ hai nước, song vai trò, vị trí của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được Hoa Kỳ chú trọng. Kết quả này đặt nền tảng vững chắc cho những chuyển biến mạnh mẽ trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam dưới thời Tổng thống Barack Obama hiện nay. Như vậy, có thể thấy rằng, sau khi điều chỉnh, chính sách của Mỹ đối với Việt Nam thời kỳ sau Chiến tranh lạnh đáp ứng những thay đổi có tính thời đại của bối cảnh quốc tế, đáp ứng xu hướng phát triển chung: hòa bình, hợp tác, cùng phát triển của nhân loại.

Trên cơ sở phân tích những biến động trong chính sách của Liên Xô đối với Việt Nam thời kỳ 1945-1991 và chính sách của Nga đối với Việt Nam từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thức, chương II đi sâu phân tích nguyên nhân và nội dung sự điều chỉnh chính sách của Nga đối với Việt Nam: từ chính sách “liên minh , trên tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa và lợi ích quốc gia” của Liên Xô trong Chiến tranh lạnh đến chính sách “bỏ rơi đồng minh” rồi đến “hợp tác” (B. Yeltsin) và “hợp tác toàn diện” (V. Putin) của Nga sau Chiến tranh lạnh. Chương này cũng cho thấy những khác biệt về nội dung và hình thức của quan hệ Nga - Việt thời kỳ sau Chiến tranh lạnh so với quan hệ Xô - Việt (1945-1991), đồng thời chỉ ra lý do của sự khác biệt đó. Có thể nói, chính sách đối ngoại của Nga đối với Việt Nam thời kỳ sau Chiến tranh lạnh được khôi phục vào cuối thời kỳ cầm quyền của B. Yeltsin nhưng chỉ thật sự tái sinh dưới thời kỳ cầm quyền của Tổng thống V. Putin (2000-2008) và phát triển mạnh mẽ hơn dưới thời D. Medvedev, đặc biệt là hai nhiệm kỳ tiếp theo của Tổng thống V. Putin (từ năm 2012 đến nay).

Một số nhận xét về sự điều chỉnh chính sách của Mỹ và Nga đối với Việt Nam thời kỳ sau Chiến tranh lạnh được tác giả đưa vào chương cuối của cuốn sách. Đó là những phân tích, đánh giá khách quan, khoa học về sự tương đồng và khác biệt trong chính sách của mỗi cường quốc đối với Việt Nam; về những tác động từ sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ, Nga đối với Việt Nam cũng như đối với khu vực Đông Nam Á hay châu Á - Thái Bình Dương. Cuối cùng, tác giả cũng đưa ra một số dự báo bước đầu về chính sách đối ngoại và quan hệ song phương của Mỹ, Nga đối với Việt Nam trong thời gian tới.

Với những luận chứng súc tích và nguồn tư liệu phong phú, cùng những nhận xét, đánh giá rất hữu ích và đáng tin cậy, cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích đối với các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, những người tham gia hoạch định chính sách và những độc giả quan tâm tới vấn đề này.

Hải Bình

6/14/2021 10:26:41 AM

Nghiên cứu lịch sử đối ngoại của Mỹ, Nga, Trung Quốc cho thấy, công tác xây dựng tiềm lực đối ngoại được các nước quan tâm, tiến hành với nhiều nội dung, hình thức, quy mô khác nhau, nhưng đều gắn với hoạt động quân sự, chiến tranh, nhằm đạt được mục tiêu chính trị, kinh tế và từng bước hoàn thiện theo tiến trình phát triển mỗi quốc gia.

Đối ngoại của Mỹ

Với vị thế nước lớn, tư tưởng bá chủ, lãnh đạo thế giới, Mỹ thực hiện chiến lược an ninh, quân sự, kinh tế,... mang tính toàn cầu, quan hệ với nhiều nước, nên đặc biệt quan tâm đến đối ngoại và tiềm lực đối ngoại. Mỹ cho rằng: “Sức mạnh của một quốc gia - dân tộc tuyệt nhiên không chỉ cốt ở lực lượng vũ trang, mà còn cốt ở các nguồn lực kinh tế, kỹ thuật; ở tài khéo léo, nhìn xa thấy trước và ở tính quyết tâm của chính sách ngoại giao”1. Thực tiễn hoạt động đối ngoại của Mỹ phần lớn đều gắn với hoạt động quân sự, chiến tranh, nhằm đạt mục tiêu chính trị, kinh tế. Mỹ quan niệm, Chiến tranh thế giới thứ hai là trường hợp của “ngoại giao bằng các phương tiện khác” và cho rằng: “Chiến tranh không chỉ đơn giản là để đánh bại kẻ thù mà để tạo ra nền tảng địa chính trị cho trật tự thế giới sau chiến tranh do họ xây dựng và lãnh đạo”2.

Để phục vụ hoạt động đối ngoại, ngoại giao, trước hết, Mỹ tập trung chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng, hoạch định, thực thi các chiến lược, kế hoạch ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân, học thuyết quân sự,... gắn với các nhiệm kỳ tổng thống. Điển hình, như: Học thuyết Truman, Kế hoạch Marshall nhằm thực hiện Chiến lược “ngăn chặn” Liên Xô và các nước Đông Âu thời kỳ Chiến tranh Lạnh; Học thuyết Eisenhower nhằm tăng cường vai trò của Washington ở Trung Đông và các học thuyết domino, Kennedy,… nhằm đánh đổ các “quân bài Cộng sản chủ nghĩa”, đẩy nhanh Chiến lược “ngăn chặn”, v.v. Cùng với đó, Mỹ thực hiện nhiều chính sách, phương thức ngoại giao, trong đó có ngoại giao “đô la”, ngoại giao “pháo hạm”, nhằm ràng buộc, điều chỉnh quan hệ, răn đe đối phương bằng sức mạnh kinh tế, quân sự; linh hoạt điều chỉnh các chiến lược, chính sách đối ngoại. Trong thời Chiến tranh Lạnh, nước này chuyển từ Chiến lược “ngăn chặn” sang “vượt trên ngăn chặn” nhằm xây dựng “trật tự thế giới mới” - trật tự đơn cực do Mỹ lãnh đạo; tăng cường “diễn biến hòa bình” chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, chia sẻ trách nhiệm với đồng minh, ngăn chặn đối thủ tiềm tàng đe dọa vị trí bá chủ của Mỹ.

Để hiện thực hóa mục tiêu đối ngoại đề ra, Mỹ tập trung xây dựng, phát triển cơ quan đối ngoại nhằm tổng kết, phân tích thông tin, tình hình quốc tế, tham mưu cho chính phủ về chính sách đối ngoại; quan hệ, thiết lập quản lý hoạt động các đại sứ quán, lãnh sự quán ở nước ngoài, liên hệ với cơ quan ngoại giao các nước; thực hiện chương trình huấn luyện quân sự ngoại quốc, v.v. Cùng với đó, Mỹ chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng lực lượng làm công tác đối ngoại, tập hợp, sử dụng các nhà ngoại giao giỏi, linh hoạt, sắc bén, như: George Marshall, Wiliam L. Clayton, George F. Kennan,... vào quá trình tham mưu, chỉ đạo, thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược đối ngoại quốc gia. Cơ quan đối ngoại và các nhà ngoại giao là lực lượng đắc lực, nòng cốt tham mưu cho các thế hệ Tổng thống Mỹ xây dựng, hoạch định và thực thi các chính sách đối ngoại. Ngoài ra, Mỹ đặc biệt quan tâm bảo đảm tài chính, vật chất phục vụ hoạt động đối ngoại thông qua viện trợ kinh tế, vũ khí, trang bị, phương tiện quân sự,... cho các nước đồng minh, tạo sức mạnh “mềm” răn đe, khống chế, đè bẹp đối phương, khẳng định vai trò lãnh đạo thế giới.

Đối ngoại của Nga

Trong lịch sử chiến tranh, xây dựng, phát triển, Nga hết sức coi trọng đối ngoại và tiềm lực đối ngoại. Cơ quan ngoại giao của Nga được thành lập rất sớm, “năm 1718, Hoàng đế Piotr 1 đặt ra các hội đồng phụ trách, mỗi hội đồng phụ trách một ngành quản lý nhà nước nhất định, như Hội đồng ngoại giao, Hội đồng quân sự,…”3. Thời kỳ này, Nga tập trung xây dựng các chính sách đối ngoại quân sự, phát triển pháo binh, công binh, công nghiệp đóng tàu,… ký liên minh quân sự với Đan Mạch, Ba Lan, phát động chiến tranh với Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ giành thắng lợi. Đồng thời, chú trọng xây dựng lực lượng đối ngoại, lập đại sứ quán ở các nước, tiến hành các hoạt động ngoại giao, quân sự, chiến tranh để khai thông con đường ra biển Ban tích và biển Đen qua một phần lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1723, Nga đã đạt được mục tiêu vươn ra Địa Trung Hải qua biển Hắc Hải, mở rộng nhiều vùng lãnh thổ xuống phía Nam, trở thành nước phong kiến hùng mạnh - thành trì của các chính thể quân chủ châu Âu.

Đầu thế kỷ XIX, Nga tiếp tục xây dựng, phát triển, mở rộng cơ quan đối ngoại và lực lượng đối ngoại; đẩy mạnh thành lập các liên minh quân sự, như: Liên minh Ba Hoàng (Nga, Áo, Phổ), Liên minh tứ cường (Nga, Anh, Áo, Phổ). Đặc biệt, Nga Hoàng trực tiếp soạn thảo, chuẩn bị nội dung Hiệp ước thành lập Liên minh Thần thánh (gồm hầu hết các hoàng đế châu Âu) tạo sức mạnh, vị thế trong quan hệ quốc tế. Sau Cách mạng tháng Mười (1917), V.I. Lênin chỉ rõ: “Chính sách đối ngoại là sự tiếp tục của chính sách đối nội, nhưng bằng phương pháp khác. Ngoại giao là tấm gương phản chiếu sự thịnh, suy, yếu, mạnh của mỗi quốc gia, trong mối quan hệ tương tác của các lợi ích, trí và lực giữa các nước”4. Vì vậy, Ông chú trọng hoạch định các chính sách quan hệ, đoàn kết quốc tế cộng sản; đẩy mạnh giao lưu văn hóa với các nước; đầu tư nhân lực, vật lực cho hoạt động đối ngoại.

Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô5 chú trọng hoạch định và linh hoạt điều chỉnh chính sách đối ngoại từ liên minh với Mỹ, Anh chống phát xít Đức (1946 - 1948), chuyển sang phòng thủ chống lại Chiến lược “ngăn chặn” của Mỹ và các nước phương Tây. Đến thập niên 70, đặc biệt là sau chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, chính sách đối ngoại của Liên Xô chuyển theo hướng phản công tích cực hơn trong việc đối phó với chính sách thù địch của các nước phương Tây. Khi M. Gorbachev lên nắm quyền (Tổng Bí thư), Liên Xô điều chỉnh chính sách đối ngoại sang hòa hoãn, nhân nhượng với Mỹ, các nước phương Tây, thậm chí là “vô nguyên tắc” với những quan điểm “ưu tiên lợi ích nhân loại”, “triệt tiêu sự khác biệt về ý thức hệ”, “ngôi nhà chung châu Âu”, v.v. Đồng thời, Liên Xô đầu tư lớn lượng tài chính, vật chất, vũ khí, phương tiện quân sự viện trợ cho các nước đồng minh Đông Âu, các nước thế giới thứ 3 theo kiểu “cho không”, nhằm mở rộng địa bàn ảnh hưởng, tạo sức mạnh đối trọng, cân bằng chiến lược với Mỹ, cạnh tranh vị trí số 1 thế giới. Tuy nhiên, do chính sách đối nội, đối ngoại của Liên Xô trong quá trình cải cách chưa phù hợp nên dẫn đến tan vỡ (1991). Hiện nay, Nga chú trọng xây dựng tiềm lực đối ngoại, tập trung vào xây dựng cơ quan đối ngoại; đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò lực lượng đối ngoại; thực hiện chính sách, chiến lược đối ngoại theo hướng độc lập, thực dụng, tăng cường quan hệ với các nước SNG, châu Âu và các nước lớn, theo đuổi mục tiêu trở thành cường quốc thế giới.

Đối ngoại của Trung Quốc

Trong lịch sử ngoại giao, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã từng phải lệ thuộc “cống nạp báu vật” sau khi thất bại quân Mông Cổ để ngăn chặn tái chiến tranh và ngược lại, với chính sách “viễn giao, cận công” họ cũng hay mang quân đi “chinh phạt”, quy hàng nước nhỏ, mở mang bờ cõi và duy trì bang giao ở thế bề trên - “thiên triều, thượng quốc”.

Từ khi Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân lật đổ sự thống trị của đế quốc, chủ nghĩa phong kiến, đưa cách mạng dân chủ đến thắng lợi (năm 1949), thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã đặc biệt quan tâm đến đối ngoại và xây dựng tiềm lực đối ngoại. Họ tập trung nghiên cứu, hoạch định ba chính sách ngoại giao lớn: “quét dọn sạch sẽ nhà cửa rồi mới mời khách tới”, “làm lại từ đầu” và “nhất biên đảo”, nhằm cắt đứt triệt để những mối quan hệ ngoại giao trong chế độ cũ, thiết lập ngoại giao mới nghiêng theo phe xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô trong bối cảnh đối lập giữa phương Đông và phương Tây. Thời kỳ này, Trung Quốc đầu tư số lượng lớn nhân lực (chuyên gia quân sự), vật lực (vũ khí, trang bị, phương tiện, tài chính) giúp đỡ, viện trợ Triều Tiên trong chiến tranh Triều Tiên và các nước Đông Dương trong chiến tranh Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt từ năm 1978, theo chủ trương cải cách, mở cửa, Trung Quốc tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao, “tham gia hơn 100 tổ chức quốc tế giữa các chính phủ, ký hơn 300 công ước quốc tế, tham dự 24 đợt hành động duy trì hòa bình của Liên hợp quốc với số người lên đến hơn chục nghìn”6. Hiện nay, hoạt động đối ngoại của Trung Quốc phát triển mạnh mẽ với chính sách ngoại giao toàn diện trên cơ sở tuân thủ 05 nguyên tắc chung sống hòa bình, coi trọng ngoại giao khu vực, quân sự và ngoại giao vì nhân dân; xây dựng lòng tin, sự hòa hợp, thúc đẩy tiến trình thế giới đa cực; “kiên trì chính sách ngoại giao hòa bình, độc lập, tự chủ, bảo vệ hòa bình thế giới và cùng nhau phát triển”7, ủng hộ các nước đang phát triển; điều chỉnh phương châm từ “giấu mình chờ thời” sang “trỗi dậy hòa bình” hướng tới xây dựng “thế giới hài hòa”; đề cao “độc lập, tự chủ”, thực hiện chính sách “ngoại giao nước lớn”, tăng cường ảnh hưởng với các nước, trỗi dậy mạnh mẽ, cạnh tranh vị trí siêu cường thế giới.

Nghiên cứu lịch sử đối ngoại các nước lớn cho thấy, hầu hết việc xây dựng tiềm lực đối ngoại đều gắn với hoạt động quân sự, chiến tranh, nhằm đạt được mục tiêu chính trị, kinh tế,… và từng bước hoàn thiện theo tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Mặc dù, tiến hành với nội dung, cách thức, quy mô khác nhau, nhưng các nước đều tập trung hoạch định, điều chỉnh các học thuyết, chính sách, chiến lược, kế hoạch đối ngoại và đối ngoại quân sự theo tư tưởng người đứng đầu; hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện hệ thống quan điểm, nguyên tắc, cơ chế, thể chế pháp luật về đối ngoại; xây dựng, phát huy vai trò của cơ quan đối ngoại, các nhà ngoại giao, cá nhân lãnh tụ; chuẩn bị vật chất, tài chính; viện trợ kinh tế đồng minh; huy động sức mạnh liên minh quân sự,… tăng cường sự ảnh hưởng quốc gia đối với khu vực, thế giới, thực hiện các mục tiêu chiến lược đề ra.

Đây là cơ sở quan trọng để nghiên cứu, phát triển, vận dụng vào xây dựng tiềm lực đối ngoại của Việt Nam trên cả ba kênh đối ngoại Trung ương (đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân) và đối ngoại quốc phòng phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thượng tá, ThS. NGUYỄN ĐỨC PHÚ
__________________

1 - Paul Kennedy – Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc, Nxb Thông tin lý luận, H. 1992, tr. 56.

2 - Thomas J. Mc Cormick – Nước Mỹ nửa thế kỷ Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 89.

3 - Hà Mỹ Hương – Nước Nga trên trường quốc tế hôm qua, hôm nay và ngày mai, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 24.

4 - Nguyễn Đình Bin – Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 28.

5 - Liên Xô (Liên bang Xô viết) tồn tại từ 1917 - 1991.

6 - Trương Than Mẫn – Ngoại giao Trung Quốc, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, H. 2012, tr. 10.

7 - Nguyễn Thị Quế – Chính sách đối ngoại của các nước lớn trong giai đoạn hiện nay, Nxb CTQG, H. 2015, tr. 96.