Lý Hữu Chi là người như thế nào

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

$\text{#mm}$

Trong tác phẩm :

`->` Truyền kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ

Thuộc :

`->` Chương 18

Nhân vật Lý Hữu Chi được làm :

`->` Tướng Quân

`->` Do Quốc công Đặng Tất tiến cử vì thấy ông khỏe mạnh, tính dữ tợn...

Hãy luôn nhớ cảm ơnvote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

PhotoBob295 rất mong câu trả lời từ bạn. Viết trả lời

Lý Hữu Chi là người như thế nào

  • trangpham
  • Lý Hữu Chi là người như thế nào

    Quản trị viên của Hoidap247.com

  • 25/03/2022

  • Lý Hữu Chi là người như thế nào
    Cảm ơn 3


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠKHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂNBỘ MÔN NGỮ VĂNPHẠM PHƯỚC DUYÊNMSSV: 6106384THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤCCỦA NGUYỄN DỮLuận văn tốt nghiệp Đại học Ngành Ngữ vănCán bộ hướng dẫn: ThS. TẠ ĐỨC TÚCần Thơ, tháng 11 năm 2013ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁTMỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5.Phương pháp nghiên cứu NỘI DUNGChương 1: Một số vấn đề chung1.1 Khái niệm nhân vật văn học 1.2 Vài nét về thể loại Truyền kỳ 1.2.1 Khái niệm Truyền kỳ 1.2.2 Vài nét về thể loại Truyền kỳ 1.2.3 Thể loại Truyền kỳ trong văn học Việt Nam 1.3 Tác giả Nguyễn Dữ. 1.3.1 Vài nét về Nguyễn Dữ 1.3.2 Sơ lược về xã hội Việt Nam thời đại của Nguyễn Dữ 1.4 Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục1.4.1 Vài nét về Truyền kỳ mạn lục1.4.2 Tóm tắt các truyện trong Truyền kỳ mạn lụcChương 2: Thế Giới Nhân Vật Trong Truyền kỳ mạn lục2.1 Nhân vật người phụ nữ 2.1.1 Nhân vật người phụ nữ có xuất thân bình thường 2.1.2 Nhân vật người phụ nữ có xuất thân quyền quý 2.2 Nhân vật thiếu niên – Nho sinh 2.2.1 Những nhân vật thiếu niên – Nho sinh cọi trọng đạo đức, lễ nghĩa 2.2.2 Nhân vật thiếu niên – Nho sinh mê muội, mù quáng 2.3 Nhân vật vua – quan và nhân vật siêu nhiên. 2.3.1 Nhân vật vua – quan 2.3.2 Nhân vật siêu nhiên KẾT LUẬNTài liệu tham khảoLuận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn DữMỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiCó nhiều nhà văn, nhà thơ sáng tác rất nhiều những tác phẩm, nhưng đọng lại trong người đọc thì chỉ có khoảng một, hai tác phẩm. Nhưng cũng có những nhà văn, nhà thơ cả cuộc đời chỉ viết duy nhất một tác phẩm nhưng tác phẩm đó lại trở thành “kinh điển” của làng văn, trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình vănhọc. Ví dụ, văn học Thế giới có Gone With The Wind (Cuốn theo chiều gió) của Margaret Mitchell hay Wuthering Heights (Đồi gió hú) của Emily Bronte, văn học Việt Nam có Ông đồ của Vũ Đình Liên và đặc biệt là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ) gồm 20 truyện, cuối mỗitruyện có lời bình của tác giả (trừ truyện Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa), hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, Trần, Hồ hoặc Lê sơ. Đây không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh nam chích quái (Trần Thế Pháp), Thiên Nam vân lục liệt truyện (Những truyện được ghi chép vô số ở cõi trời Nam) (Nguyễn Hãng), Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên)… mà là một sáng tác văn học, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự trong văn học chữ Hán.Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục bằng cách mượn một nhân vật có thật trong lịch sử như Ngô Chi Lan, Nguyễn Trung Ngạn, Hồ Hán Thương, Hồ Quý Ly,… hay chỉ là nhân vật có trong huyền thoại như thần Thuồng Luồng, Diêm Vương, Linh Phi,… rồi thêm bớt, sáng tạo tình tiết, xây dựng lại nhân vật, tổ chức lại kết cấu…để tái tạo thành một thiên truyện mới. Vì thế, Truyền kỳ mạn lục tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam thế kỷ XVI Thế giới nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục đa dạng, phong phú như một xã hội Việt Nam thu nhỏ ở thế kỷ XVI, có vua chúa, quan lại, thương buôn, nhà sư, thiếu niên, phụ nữ, trẻ con,…Ngoài ra, Nguyễn Dữ còn xây dựng các nhân vật thần tiên, ma quái, Thông qua các nhân vật, Nguyễn Dữ muốn phê phán nền chính sự rối loạn, vua1Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữquan sa đọa, hại dân; xã hội rối ren, tật dịch, tệ nạn tràn lan, ma quỷ hoành hành; sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ, bất hạnh.Tuy từng được đem ra nghiên cứu, phân tích nhiều vấn đề khác nhau trong Truyềnkỳ mạn lục nhưng vấn đề thế giới nhân vật chưa được đề cập đến hoặc có đề cập cũnglà qua loa, chưa được nghiên cứu sâu. Từ thế giới nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục, ta có thể hiểu thêm về những điều tác giả muốn gửi gắm thông qua câu chuyện, thông qua hình tượng nhân vật. Vì vậy, tôi chọn đề tài: Thế giới nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ để nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp bậc đại học của mình, thiết nghĩ là một điều cần thiết và hữu ích.2. Lịch sử vấn đềTruyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ, nhưng nó lại là đỉnh caocủa văn học truyền kỳ trung đại Việt Nam, đến nay vẫn chưa có tác phẩm nào xuất sắc hơn thế. Ngay từ khi ra đời, Truyền kỳ mạn lục đã làm hao tổn tâm trí và giấy mực của rất nhiều thế hệ, từ các bậc Nho gia ngày xưa đến các nhà nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại. Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Vũ Khâm Lân, Bùi Kỷ…đều là những tác giả đã từng nghiên cứu qua Truyền kỳ mạn lục và ai cũng đánh giá cao tác phẩm này,Vũ Khâm Lân còn gọi Truyền kỳ mạn lục là “Thiên cổ kỳ bút”.Không chỉ các nhà nghiên cứu phê bình Việt Nam quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục, mà giới nghiên cứu văn học trên thế giới cũng quan tâm đến tác phẩm này. Ngay từ những năm sáu mươi, tác phẩm đã được dịch ra tiếng Nga, các nhà nghiên cứu Xô Viết khi nghiên cứu văn học phương Đông thường chú ý đếnTruyền kỳ mạn lục.[18;tr.114]Nghiên cứu sớm nhất về Truyền kỳ mạn lục có lẽ là Hà Thiện Hán, khi ông viết lời đề tựa cho tác phẩm vào năm Vĩnh Định sơ niên 1547: “Tập lục này là trứ tác củaNguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu [ ] Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát, nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu!”[3;tr.204]2Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn DữCác học giả thế kỉ XVIII – XIX như Vũ Khâm Lân thì xem Truyền kỳ mạn lục là“thiên cổ kì bút”, Lê Quý Đôn đánh giá văn chương Truyền kỳ mạn lục là “lời lẽ thanhtao tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”, Phan Huy Chú thì khen Truyền kỳ mạn lục là “áng văn hay của bậc đại gia”, tuy vậy họ chú ý nhiều đến văn phong, nghệthuật chứ chưa thật chú ý đến nội dung, nhất là thế giới nhân vật trong Truyền kỳ mạnlục.Đến thế kỉ XX, Truyền kỳ mạn lục vẫn tiếp tục được nghiên cứu tìm hiểu trên nhiều phương diện khác nhau về cả nội dung lẫn nghệ thuật bởi một số nhà nghiên cứu nhưBùi Duy Tân, Nguyễn Phạm Hùng, Trần Ích Nguyên,…Tuy vậy nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu về thế giới nhân vật, chỉ là nhắc qua những vấn đề về xã hội, con người trong tác phẩm.Trong Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII, các tác giả khẳngđịnh: “Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Dữ phóng tác những cốt truyện gắn bó với đấtViệt. Trong tất cả hai mươi truyện của Truyền kỳ mạn lục, hầu hết nhân vật chính là người nước ta, hầu hết sự tích đều xảy ra ở đất nước ta. Thời gian xảy ra các truyện làđời Lý, đời Hồ hoặc đời Lê Sơ. Không gian của truyện là từ Nghệ An trở ra”[14;tr.1]PGS. TS Trần Thị Băng Thanh viết: “Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạchtrần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật ”, “Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp”.[16;tr.2]Trong Từ điển văn học, tập II, trang 57, GS Bùi Duy Tân viết: “Tư tưởng chủ đạocủa Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn “bá giả” để đề cao đạo “thuần vương”, phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn3Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữlục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến” .[4;tr.288-291]Theo Tạ Ngọc Liễn thì: “Trong 20 truyện, truyện nào cũng thể hiện một quan điểmchính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là những mong muốn của ông về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người ”. [8;tr.173]Như vậy, tuy có nhiều công trình nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục ở các vấn đề khác nhau, kể cả nội dung lẫn nghệ thuật nhưng vấn đề thế giới nhân vật chưa thật sựđược nghiên cứu, tìm hiểu. Vì thế, bài luận Thế giới nhân vật trong Truyền kỳ mạn lụccủa Nguyễn Dữ của tôi chắc chắn sẽ không tránh khỏi một số sai sót. Tuy vậy, tôi vẫnmong đóng góp thêm ý kiến và làm hoàn chỉnh việc nghiên cứu một tác phẩm văn học lớn và có giá trị nhiều mặt như Truyền kỳ mạn lục.3. Mục đích nghiên cứuYêu cầu chính mà đề tài đặt ra là tìm hiểu Thế giới nhân vật trong Truyền kỳ mạnlục của Nguyễn Dữ, từ đó ta thấy được sự đa dạng, phong phú của nhân vật (về xuấtthân, tính cách, số phận…) trong tác phẩm. Bên cạnh đó, thông qua hình tượng nhân vật, ta có thể hiểu được ý nghĩa của từng truyện, hiểu được những triết lý nhân sinh của cuộc sống mà tác giả Nguyễn Dữ muốn gửi gắm. Ngoài ra, ta còn có thể hình dung và cảm thông với số phận của nhân vật, của con người Việt Nam thế kỉ XVI, để từ đó rút ra bài học cho bản thân: về cách đối nhân xử thế, về cách trân trọng và giữ gìn hạnh phúc gia đình, về chuyện “làm lành lánh dữ”…Mặt khác, hi vọng thông qua bài luận Thế giới nhân vật trong Truyền kỳ mạn lụccủa Nguyễn Dữ, tôi sẽ đóng góp vào công trình nghiên cứu chung về Truyền kỳ mạn lục và Nguyễn Dữ cũng như góp phần định hướng và cung cấp tài liệu cho những aisay mê và muốn tìm hiểu sâu về Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Bên cạnh đó, tôi cũng muốn mở rộng thêm vốn kiến thức và sự hiểu biết của tôi về Nguyễn Dữ vàTruyền kỳ mạn lục.4. Phạm vi nghiên cứu4Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn DữVới đề tài Thế giới nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, tôi sẽ tập trung tìm hiểu về các nhân vật trong quyển Truyền kỳ mạn lục gồm hai mươi truyện sau:1. Câu chuyện ở đền Hạng vương (Hạng vương từ ký); 2. Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu (Khoái Châu nghĩa phụ truyện); 3. Chuyện cây gạo(Mộc miên thụ truyện); 4. Chuyện gã trà đồng giáng sinh (Trà đồng giáng đản lục); 5. Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây (Tây viên kỳ ngộ ký); 6. Chuyện đối tụng ở Long cung (Long đình đối tụng lục); 7. Chuyện nghiệp oan của Đào Thị (Đào Thị nghiệp oan ký); 8. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục); 9. Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên (Từ Thức tiên hôn lục); 10.Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào(Phạm Tử Hư du thiên tào lục); 11.Chuyện yêu quái ở Xương Giang(Xương Giang yêu quái lục); 12.Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na (Na sơn tiều đối lục); 13. Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Đông Triều phế tự lục); 14.Chuyện nàng Thúy Tiêu (Thúy Tiêu truyện); 15.Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang (Đà Giang dạ ẩm ký); 16.Chuyện người con gái Nam Xương (Nam Xương nữ tử lục); 17.Chuyện Lý tướng quân (Lý tướng quân truyện); 18.Chuyện Lệ Nương (Lệ Nương truyện); 19.Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (Kim Hoa thi thoại ký); 20.Chuyện tướng Dạ Xoa (Dạ Xoa bộ soái lục). 5. Phương pháp nghiên cứuTrong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, tôi có sử dụng một số những phương pháp: Phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, phương pháp tổng hợp phương pháp khảo sát. Ngoài ra, tôi còn sử dụng một số các thao tác như phân tích, chứng minh, bình luận…để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.5Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn DữNỘI DUNGChương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG1.1 Khái niệm nhân vật văn học“Nhân vật văn học là con người được miêu tả trong văn học bằng phương tiện văn học”[9;tr.277]. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật,các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống với con người. Đó là những nhân vật có tên như Thúy Kiều, Chị Dậu, Ngô Chi Lan, Thạch Sanh, AQ, Gia Cát Lượng, ; Hay đó là những nhân vật không tên như thằng bán tơ, lính hầu, ; Hoặc đó là những con vật trong truyện cổ tích, thần thoại, bao gồm cả quái vật, yêu tinh lẫn thần linh, ma quỷ mang nội dung và ý nghĩa con người.Nhân vật có thể được thể hiện bằng những hình thức khác nhau. Đó là những con người được miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách lẫn tiểu sử nhưThúy Kiều, Lục Vân Tiên, Chí Phèo ; Đó cũng có thể là những người thiếu hẳn những nét trên, nhưng lại có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn như nhân vật người trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nổi niềm, ý nghĩ, cảm nhận như nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình. Khái niệm nhân vật có khi được sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng nổi bật trong tác phẩm. Ví dụ ta có thể nói nhân dân chính là nhân vật chính trong Chiến Tranh và Hòa Bình của Lev Tonxtoy, chiếc quan tài là nhân vật trong truyện Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, con chó là nhân vật chính trong truyện Tôi là Bêtô của Nguyễn Nhật Ánh.Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không thể bịđồng nhất với con ngườicó thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người; nó có thể được xây dựng chỉ dựa trên cơ sở quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhân vật văn học chỉ có được trong hệ thống một tác phẩm cụ thể.6Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn DữNhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Những nét chung về nhân vật văn học có thể cho phép nêu lên những hiện tượng văn học như : văn học về “con người thừa” (ở văn học Nga thế kỉ XIX), văn học về “con người Sởkhanh”…Những nhân vật văn học trở nên nổi tiếng, được biết đến rộng rãi chính lànhững hình tượng vĩnh cửu văn học thế giới như: Promete, Evgenii Onegin, Dong Juang Nhân vật văn học là hình thức cơ bản để qua đó nhà văn miêu tả đời sống một cách hình tượng. Bản chất của văn học là một quan hệ với đời sống, nó chỉ tái hiện đời sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nhân vật văn học vì thế là đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất với con người có thật trong cuộc đời.Tóm lại, trong tác phẩm văn học, nhân vật văn học là con người hoặc các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường nhưng mang những đặc điểm giống với con người và nhân vật ấy là đứa con tinh thần của nhà văn, là “máu thịt” của nhà văn để thể hiện quan niệm thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về cuộc đời và con người. Nhân vật văn học không hoàn toàn giống như con người thật ngoài đời vì chúng có những đặc trưng nghệ thuật và được thể hiện trong tác phẩm bằng các phương tiện văn học thông qua lăng kính của nhà văn, nhưng không vì thế mà chúng kém phần chân thật. Đã là tác phẩm văn học thì không thể thiếu nhân vật văn học.Các nhân vật trong tác phẩm thường tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, chúng liên quan với nhau, móc nối với nhau bằng tiến trình các sự kiện miêu tả trong tác phẩm,đồng thời quan hệ giữa các nhân vật trong mỗi hệ thống ít hay nhiều đều phản ánh mối quan hệ xã hội hiện thực của con người. Vì vậy tìm hiểu thế giới nhân vật trongTruyền kỳ mạn lục thực chất là tìm hiểu mối liên quan giữa các nhân vật không chỉtrong mỗi truyện mà còn trong mối liên hệ giữa các truyện trong cùng một chủ đề.7Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ1.2 Vài nét về thể loại Truyền kỳ1.2.1 Khái niệm Truyền kỳTruyền kỳ là một hình thức văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, thịnh hành ở đờiĐường. “Kỳ” nghĩa là kỳ ảo, kỳ lạ, nhấn mạnh yếu tố hư cấu. Truyền kỳ bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau được các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng những môtip kì quái hoang đường, lồng trong một cốt truyện có ý nghĩa trần thế, nhằm gợi hứng thú cho người đọc. Gọi là tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết truyền kỳ có dung lượng ngắn và kết cấu không theo kiểu truyện dài thu ngắn – phần nào đã có dáng dấp của thể loại truyện ngắn cận hiện đại. Sự tham gia của yếu tố thần kì vào câu chuyện cũng không phải là do những lực lượng tự nhiên được nhân hóa như kiểu thần thoại, hoặc những nhân vật có phép lạ như kiểu trời, bụt, thần tiên… trong truyện cổ tích thần kì mà phần lớn ở ngay hình thức “phi nhân tính” của nhân vật ( ma quỷ, hồ ly, vật hóa người. . .). Tuy nhiên, trong truyện bao giờ cũng có những nhân vật là người thật, và những nhân vật mang hình thức “phi nhân” thì cũng chỉ là sự cách điệu, phóng đại của tâm lí, tính cách một loại người nào đấy; vì thế truyện truyền kỳ vẫn mang rất đậm yếu tố nhân bản, có giá trị nhân bản sâu sắc.1.2.2 Vài nét về thể loại Truyền kỳTên thể loại bắt nguồn từ tên tập truyện nhan đề “truyền kỳ” của Bùi Hình đời Đường. Truyện truyền kỳ đời Đường kế thừa truyền thống chí quái thời Lục triều và đạt đến đỉnh cao của thể loại. “Những chuyện biến hóa kì lạ rất thịnh vào đời Lục triều,có điều phần lớn là ghi chép lại những điều bịa đặt chứ đâu phải truyện biến hóa, đến người đời Đường mới có sự cấu tứ li kì, mượn tiểu thuyết để gửi gắm ngọn bút”[17;tr.659]. Thể loại này được sử dụng trên một không gian rộng lớn gồm TrungQuốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam trong hàng chục thế kỷ.Truyện truyền kỳ là truyện ngắn văn ngôn thịnh hành đời Đường, nội dung thuật những câu chuyện kỳ lạ xoay quanh chủ đề tình yêu nam nữ trong đời sống trần tục thường ngày. Đồng thời, với thủ pháp nghệ thuật độc đáo là lấy kì ảo làm phương tiện nghệ thuật để truyền tải nội dung về đời sống con người, phản ánh và lý giải hiện thực cuộc sống. Truyền kỳ tiếp tục phát triển ở Trung Quốc, với hai tác phẩm nổi tiếng là8Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn DữTiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1341 – 1427) cuối đời Nguyên – đầu đời Minh vàLiêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640 – 1715) đời Thanh, làm rạng danh truyệntruyền kỳ Trung Quốc và có ảnh hưởng lớn đến thể loại truyền kỳ các nước trong khu vực Đông Á như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, 1.2.3 Thể loại Truyền kỳ trong văn học Việt NamNhà nghiên cứu Trần Đình Sử viết: “truyện truyền kỳ dùng văn xuôi để kể, đến chỗtả cảnh, tả tình thì dùng văn biền ngẫu, khi nhân vật bộc lộ cảm xúc thì thường làm thơ” [13; tr.294].Một truyện truyền kỳ thường có dung lượng không lớn. Bố cục mỗi truyện thường chia thành ba phần: mở đầu giới thiệu danh tính, nguồn gốc nhân vật, giữa truyện kể lại hành trạng, cuộc đời nhân vật và phần kết khẳng định tính chân thực của câu chuyện. Phần lời bình nằm cuối mỗi truyện cũng được xem là một bộ phận hữu cơ trong kết cấu chỉnh thể của thể loại.Ở Việt Nam, khái niệm truyện truyền kỳ được hiểu ở những cấp độ rộng hẹp khác nhau. Có nhà nghiên cứu xếp tất cả những tác phẩm văn xuôi có yếu tố thần linh ma quái hoặc kỳ dị vào truyện truyền kỳ. Có người nêu thêm tiêu chí hư cấu của nhà văn và cho rằng chỉ xếp vào truyện truyền kỳ những truyện có con người là nhân vật chính chứ không phải thần linh ma quỷ.Cho đến nay, nhiều người cho rằng Thánh Tông di thảo mở đầu cho truyện truyền kỳ ở Việt Nam, tuy nhiên không phải tất cả 20 truyện đều là truyện truyền kỳ đích thực. Truyền kỳ mạn lục được đánh giá là đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Ở giai đoạn sau, Lan Trì kiến văn lục có những thành tựu đáng kể nhất.Thuật ngữ “truyền kỳ” lần đầu tiên được xuất hiện trong đầu đề tập truyện Truyềnkỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Sau đó là Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm và Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích.Nhìn lại quá trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam, bắt đầu từ Việt điện ulinh của Lý Tế Xuyên (đầu thế kỉ XV), ta thấy tác phẩm này đã chứa đựng những yếutố kì ảo. Nhân vật trong truyện hầu hết là những vị anh hùng dân tộc đã hiển thánh. Tập truyện có thể coi là cuốn thần phả về những linh hồn bất tử của nước Đại Việt. Vì9Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữvậy, Việt diện u linh đã thấp thoáng yếu tố của bút pháp truyền kỳ, có thể coi là tác phẩm “mầm mống” cho sự phát triển của truyền kỳ sau này. Sau Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên là tập Lĩnh Nam trích quái lục của Trần Thế Pháp (cuối thế kỉ XIV – đầu thế kỉ XV). Trần Thế Pháp đã tập trung chép có sáng tạo những truyện dân gian có yếu tố kì bí như truyện Rùa vàng, Phù Đổng Thiên Vương, Hai tác phẩm Việt điện u linh và Lĩnh Nam trích quái lục có thể xem là tiền đề văn học cho sự phát triển của thể loại truyền kỳ. Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp có thể coi là những nhà văn đặt nền móng cho thể loại truyền kỳ Việt Nam.Cuối thế kỉ XV, Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông được coi là bước tiến xa của thể loại truyền kỳ Việt Nam, với những câu chuyện độc đáo và đặc sắc, mang đậm bút pháp truyền kỳ như Lấy chồng dê, Duyên lạ xứ hoa, Tinh chuột, Nhưng thể loại truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam chỉ được khẳng định khi Truyền kỳmạn lục xuất hiện. Sự ra đời của tác phẩm đã đưa thể loại truyền kỳ Việt Nam lên đỉnhcao và chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong văn xuôi tự sự Việt Nam. Có thể khẳng định, trước và sau đều không có tác phẩm truyền kỳ nào sánh bằng Truyền kỳ mạn lục.Truyền kỳ mạn lục với nội dung phong phú, đa dạng nhưng chủ yếu xoay quanhchủ đề tình yêu nam nữ trong đời sống trần tục thường ngày và mang đậm khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa.Theo PGS. TS Vũ Thanh, Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng truyện của Cù Hựu ở bút pháp thể loại. Nhiều bài viết và các công trình nghiên cứu cũng cho chúng ta thấy rõ sự ảnh hưởng khá sâu đậm của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam từ chữ viết đến thi liệu nhất là về thể loại. Trước thế kỉ thứ X, chúng ta phải chịu ngàn năm Bắc thuộc, hơn nữa hai nước là “láng giềng”, nên việc ảnh hưởng qua lại cũng không có gì khó hiểu. Đó xét cho cùng chỉ là quá trình “ăn lá nhả tơ”, học tập để sáng tạo. Còn nhớ, Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng mượn nhân vật, ý tứ Kim Vân KiềuTruyện của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng Truyện Kiều là một sáng tác văn học củaNguyễn Du, “kiệt tác” của văn học Việt Nam. Tương tự, Truyền kỳ mạn lục cũng không phải là một tác phẩm sao chép, mà là một sáng tác văn học được thừa nhận, được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”.10Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ1.3 Tác giả Nguyễn Dữ.1.3.1 Vài nét về Nguyễn DữNguyễn Dữ là nhà tiểu thuyết truyền kỳ nổi tiếng nhất của Việt Nam thời trung đại với “thiên cổ kỳ bút” Truyền kỳ mạn lục. Các giáo trình để giảng dạy về Nguyễn Dữ thường viết: Nguyễn Dữ là người xã Đoàn Lâm, huyện Gia Phúc (nay là Thanh Miện –Hải Dương), chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, con trai của thượng thư của Nguyễn Tường Phiêu. Từ nhỏ học rộng, tài cao. Sau, thi đỗ và ra làm quan cho triều đình nhưng vì bất mãn trước thời thế của xã hội phong kiến, không bao lâu thì xin từ quan về ở ẩn. Trong thời gian ở ẩn viết tập Truyển kỳ mạn lục để gửi gắm tâm sự, ước mơ của mình, đồng thời, thể hiện chí khí của bậc túc Nho bất đắc chí. Mặc dù có nhiều nghiên cứu nhưng chưa có một tài liệu nào khẳng định được năm sinh năm mất của Nguyễn Dữ. Thân thế và cuộc đời của tác giả Truyền kỳ mạn lụccũng chỉ được phỏng đoán dựa vào một vài tài liệu ghi chép sơ sài của người đời sau. Vì vậy, sự không thống nhất khi nghiên cứu về tác giả Nguyễn Dữ là điều khó tránh khỏi. Cụ thể là từng có hai giả thuyết về thân thế cùa Nguyễn Dữ.Giả thuyết thứ nhất cho rằng Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bạn thân của Phùng Khắc Khoan. Giả thuyết này đang tồn tại trong Sách giáo khoa và các giáo trình ở bậc Đại học. Các nhà nghiên cứu theo giả thuyết này:Hà Thiện Hán trong Lời tựa Truyền kỳ mạn lục viết vào Vĩnh Định năm đầu 1547 có lẽ là “ghi chép sớm nhất” về Nguyễn Dữ: “Tập lục này là trước tác củaNguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền. Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý”[3;tr.204]Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn viết: “Nguyễn Dữ người xã Đỗ Tùng,huyện Gia Phúc. Cha là Nguyễn Tường Phiếu, Tiến sĩ khoa Bính thìn đời Hồng Đức (1496), làm quan đến Thượng thư Bộ Hộ. Dữ từ nhỏ đã nổi tiếng học rộng nhớ nhiều,11Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữcó thể lấy văn chương nối nghiệp nhà. Đỗ Hương tiến, nhiều lần thi Hội trúng Tam trường, được bổ chức Tri huyện Thanh Tuyền, mới được một năm, lấy cớ nơi làm việc xa xôi, xin về phụng dưỡng (cha mẹ?). Sau vì ngụy Mạc thoán đoạt, thề không đi làm quan nữa, ở làng dạy học, không đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền kỳ mạn lục bốn quyển, văn từ thanh lệ, người đương thời rất khen” [2]Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, ông viết: “Truyền kỳ mạnlục, bốn quyển. Dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, đại khái bắt chước Tiễn đăng tập của một nhà nho đời Nguyên. Tập này cộng 22 truyện. Dữ người Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc, con trai của Tiến sĩ Tường Phiếu”[1;tr.169]. Lại viết: “Bấy giờ học trò ông Nguyễn Bỉnh Khiêm thành đạt rất nhiều, chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Trương Thì Cừ là có tiếng nhất Khi Dữ viết quyển Truyền kỳ mạn lục được ông sửa chữa nhiều chỗ, sau thành áng văn hay của bậc đại gia”[1;tr.337].Bùi Văn Nguyên viết: “Cũng như thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữlà một nhà nho có khí tiết sống giữa thời loạn lạc ”[11;tr.261]Bùi Duy Tân viết: “Theo Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề thì Nguyễn Dữ làhọc trò Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), bạn học với Phùng Khắc Khoan (1528-1613) ”[7;tr.239]. “Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ Nôm”[5;tr.1124].Giả thuyết thứ hai mà Lại Văn Hùng dẫn theo Trần Ích Nguyên trong “Nghiêncứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục” lại cho rằng Nguyễn Dữ làngười đồng thời, thậm chí là lớn hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều tuổi. Trần Ích Nguyên trích lại ý kiến của Trần Khánh Hạo trong lời thuyết minh về việc xuất bản tậpTruyền kỳ mạn lục trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san ở Đài Loan, cho rằngNguyễn Dữ không phải là học trò mà là người đồng niên, thậm chí thuộc thế hệ trước Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau “Căn cứ vào tiểu truyện họ Nguyễn, năm Vĩnh Định sơniên, Bỉnh Khiêm nghiễm nhiên là bậc thày của vua, thanh danh rất lớn. Nếu như Nguyễn Dữ là học trò “cao túc” của ông thì e rằng Hà Thiện Hán khi viết lời Tựa12Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữkhông thể bỏ sót tên ông. Vậy thì có thể Nguyễn Dữ chỉ là người đồng thời và có khi còn lớn tuổi hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm chút ít”[12;tr.52] và cho rằng “đây là một luận đoán khá tin cậy”. Học giả người Đài Loan này viết và trích dẫn nhiều ý kiến nhằmchứng minh Nguyễn Dữ là một nhân sĩ triều Lê, đỗ Cử nhân dưới triều Lê, làm quan cho triều Lê, thuộc thế hệ trước hoặc đồng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, cáo quan về ở ẩn do bất mãn với nhà Mạc, viết Truyền kỳ mạn lục để ký thác tâm sự. “NguyễnTường Phiếu đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1496, và con ông ta, Nguyễn Dữ, bước vào con đường khoa hoạn sau ông khoảng từ 10 đến 20 năm là điều có thể hiểu được[…]KhiNguyễn Dữ đỗ đạt, làm quan, viết Truyền kỳ mạn lục dưới triều Lê, và tác phẩm này đã được “người đương thời rất khen” (Lê Quý Đôn), thì Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 –1585) lúc đó vẫn còn là một nho sĩ nghèo […] Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến và được đề cao chủ yếu là sau khi thi đỗ Trạng nguyên và làm quan dưới triều Mạc ĐăngDoanh (1535-1542)”. Vì thế, tác giả bài viết này không tin Nguyễn Bỉnh Khiêm làthầy học của Nguyễn Dữ. Hơn nữa “Năm 1527, năm nhiều người cho rằng vì ngụyMạc thoán ngôi nên Nguyễn Dữ bỏ về, “thề không đi làm quan nữa” thì “bạn học” Phùng Khắc Khoan vẫn còn chưa ra đời (Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528, mất năm1613)?!” [6] Đây là một ý kiến rất mới mẻ nhưng cũng rất “có lý”, chúng ta khôngthể không lưu tâm khi nghiên cứu về Nguyễn Dữ.Tóm lại, mặc dù chưa có sự thống nhất, vẫn có điều chưa rõ nhưng chúng ta có thể khẳng định: Nguyễn Dữ sinh ra vào khoảng thế kỉ XVI, quê ở xã Đoàn Lâm, huyện Gia Phúc (nay là Thanh Miện – Hải Dương), là một nhà nho có khí tiết, viết Truyền kỳmạn lục trong thời gian ở ẩn.1.3.2 Sơ lược về xã hội Việt Nam thời đại của Nguyễn DữThế kỷ XVI là thời kỳ đất nước mất ổn định về chính trị, nhà nước phong kiến đi vào con đường suy yếu. Chỉ trong vòng ba mươi năm từ khi Lê Thánh Tông mất (1497)đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua (1527), nước ta đã có sáu ông vua lên ngôi, trừ Lê Hiển Tông hiền lành, còn lại đều ăn chơi sa đọa, hoang dâm vô độ. Những vị vuađó có người chết yểu, có người bị giết hoặc bị phế truất, có người bị gọi là “vua lợn”, có người bị gọi là “vua quỷ”. Những gì Lê Thánh Tông cố công gầy dựng đã nhanh chóng sụp đỗ.13Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn DữNguyên nhân một phần là do sự tàn bạo, sa đọa của những ông vua, ngôi báu bị thay đổi liên tục, một phần khác là do sự chuyên quyền và nổi loạn của các thế lực chính trị liên tục xâu xé, tranh giành ảnh hưởng, lợi lộc. 1511, Thân Duy Nhạc dấy quân ở Kinh Bắc, Trần Tuân làm loạn ở Sơn Tây; 1512, Nguyễn Nghiêm làm loạn ởSơn Tây, Hưng Hóa; 1515, loạn Phùng Chương ở Tam Đảo, loạn Đặng Hân, Đặng Ngật ở Thanh Hóa, Trần Cảo khởi binh đánh nhà Lê,…Những cuộc chiến tranh này làm cho một vùng rộng lớn của nước ta chìm trong mất mát, đau khổ. Thêm vào nữa là cuộc chiến tranh dai dẳng, quyết liệt giữa hai thế lực Lê – Mạc, gây ra thế cuộc Nam bắc Triều trong lịch sử.“Chính sự phiền hà, lòng dân oán hận” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi), hơnnữa, tình cảnh đói khổ, chết chóc, ly tán, cộng vào đó là những thiên tai triền miên đã đẩy nhân dân vào tình cảnh đã khổ nay càng khốn khổ hơn. Giai đoạn này cũng là giaiđoạn Nho giáo suy thoái và là điều kiện thuận lợi để Phật, Đạo có cơ hội hưng khởi.Đứng trước tình trạng đất nước loạn lạc, xã hội phong kiến thối nát. Những nhà nho có tài và có tâm làm sao không ngao ngán, chán nản? Niềm tin và lý tưởng của họđang bị lung lay rất dữ dội nếu không muốn nói là gần như đỗ vỡ. Nhiều nhà Nho đã không ra thi hoặc thi đỗ nhưng chỉ làm quan trong một thời gian ngắn rồi treo ấn từ quan và ở ẩn. Tuy ở ẩn nhưng họ vẫn quan tâm đến thế sự. Họ, bấy giờ, không chỉ thuần ca ngợi những mặt tốt đẹp của các tập đoàn phong kiến cát cứ, vốn là đặc điểm của nền văn học trung đại mà họ đã gián tiếp mượn chuyện xa xưa, hoang đường hay những hình ảnh ẩn dụ kín đáo để chỉ trích tình trạng mục rỗng của xã hội đương thời. Sở dĩ họ không trực tiếp tố giác xã hội phong kiến thối nát vì e ngại búa rìu trừng phạt của nhà nước phong kiến. Nguyễn Dữ là một trong những nhà trí thức đó. Nguyễn Dữđã dồn vào Truyền kỳ mạn lục không chỉ tài năng mà mà quan trọng hơn là những điều mắt thấy tai nghe, những điều chướng tai gai mắt trong xã hội đương thời với mong muốn khuyến thiện trừ ác, đồng cảm và xót thương cho những người khốn khổ, oan khuất và thể hiện ước mơ có một đất nước với vua hiền tôi trung, nhân dân sung túc.Ông đã vẽ nên một thế giới thần tiên tươi đẹp, nơi đây không hiện hữu cái ác, chỉ có những điều tốt đẹp, con người có thể sống an nhàn. Ông cũng vẽ nên chốn âm ti, địa phủ với những hình phạt đáng sợ để răn đe, khuyên bảo những ngươi trót làm điều ác,vì với ông “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bão”. Vì thế, dù Truyền kỳ mạn lục là 14Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữnhững câu chuyện truyền kỳ mang nhiều yếu tố kỳ ảo, có một thế giới nhân vật cũng đầy kỳ ảo nhưng lại có một nội dung hiện thực sâu sắc, xứng đáng là “thiên cố kỳ bút”.1.4 Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục1.4.1 Vài nét về Truyền kỳ mạn lụcTruyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ, viết trong thời gian ông ởẩn. Có một số ý kiến về thời điểm ra đời của tác phẩm.“GS. Trần Khánh Hạo trong sách Hán văn Việt Nam tiểu thuyết tùng san ở phần “xuất bản thuyết minh” có nói: “Ở cuối thiên Từ Thức tiên hôn lục trong Truyền kỳ mạn lục kể về sự việc năm Lê Diên Ninh 5, tức là Mạn lục được viết xong cũng phải sau năm 1458”. Lúc này chúng ta lại phát hiện ở quyển bốn truyện Kim Hoa thi thoại ký có đoạn viết: “Cuối năm Đoan Khánh, có người học trò là Mao Tử Biên đến du học ở kinh thành”. Đoan Khánh là niên hiêu của Lê Uy Mục, tất cả có 5 năm, tức 1506-1509. Cuối năm Đoan Khánh là chỉ Đoan Khánh 5, tức thời gian sớm nhất Truyền kỳ mạn lục có thể ra đời phải là năm 1509”[12;tr.100].Theo nhiều tài liệu hiện nay, Truyền kỳ mạn lục ra đời vào nữa đầu thế kỷ XVI, truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi dịch ra chữ Nôm.Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫnbiền văn và thơ ca, cuối truyện có lời bình của tác giả (trừ chuyện Cuộc nói chuyện thơở Kim Hoa). Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian,nhiều truyện xuất phát từ các vị thần đến nay vẫn còn thờ như Vũ Thị Thiết (Chuyệnngười con gái Nam Xương)(đền thờ ở Hà Nam), Văn Dĩ Thành (Chuyện Tướng DạXoa)(đền thờ ở làng Gối, Hà Nội) hay Nhị Khanh (Chuyện Người nghĩa phụ ở KhoáiChâu)(đền thờ ở Hưng Yên)… Phần lớn các truyện trong Truyền kỳ mạn lục, ngay saukhi giới thiệu nhân vật thì biến cố liền xảy ra và lôi cuốn nhân vật chính vào dòng xoáy của các sự kiện, tạo nên các tình tiết, hành động. Nhân vật chính gặp gỡ một nhân vật “phi nhân tính” khác như thần tiên, yêu ma,…Sau đó rời bỏ nơi mình ở tìmđến một không gian xa lạ, huyền ảo khác, kết thúc hoặc là sự giải thoát, thức tỉnh của15Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữcác nhân vật, hoặc trở về cõi nhân thế, hoặc nhân vật chính được đạo sĩ cứu thoát trở lại cõi đời, hoặc hoá thân sang một kiếp đời khác.“Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật […] phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến [ ] Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến.” [4; tr.288 -290]. Nếu gạt bỏ những yếu tố hoang đường kì quái, thì nhìnvào nội dung cơ bản của Truyền kỳ mạn lục, ta sẽ thấy một bức tranh xã hội rất rõ ràng.Về nghệ thuật, Truyền kỳ mạn lục đương nhiên viết theo thể truyền kỳ nhưng “ông đãphá vỡ những quy tắc lâu đời về hình thức thể loại và tạo ra những tác phẩm theo kiểutự do hơn”[15;tr.74]. Giáo sư Bùi Văn Nguyên thì viết “tất cả hai mươi truyện trong Truyền kỳ mạn lục, nếu được phân tích tỉ mỉ, bộc lộ ích nhiều yếu tố văn học dân gianđúng với bút pháp của thể truyền” [10;tr.54]. Có nhiều ý kiến khác nhau về nghệ thuậtcủa Truyền kỳ mạn lục, phần lớn nghiên cứu về sự ảnh hưởng của truyện cổ tích, dân gian Việt Nam và Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đối với Truyền kỳ mạn lục.Tóm lại, với nội dung vừa hấp dẫn vừa mang có tính thực cao, có giá trị nhân văn, cộng với thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Truyền kỳ mạn lục xứng đáng với lời khen“Thiên cổ kỳ bút” của Vũ Khâm Lân.1.4.2 Tóm tắt các truyện trong Truyền kỳ mạn lục1. Câu chuyện ở Đền Hạng Vương: Hồ Tôn Thốc trên đường đi sứ sang TrungQuốc có đi ngang đền Hạng Vương. Ông làm một bài thơ chê chính sách bạo lực của Hạng Vũ. Tối đó, ông nằm mộng thấy được mời đến cung điện Hạng Vương và trực tiếp nói chuyện với Hạng Vũ cùng với một vị lão thần họ Phạm (Phạm Tăng?). Kết truyện tác giả viết “Rồi đó canh tàn trà cạn, ông đứng dậy từ giã xin về; Hạng Vương đưa chân ra đến cửa thì phương Đông đã dần sáng 16Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữrạng. Ông xốc áo vùng dậy, té ra là một giấc chiêm bao, bèn mua rượu và nem bày một lẽ cúng ở đầu thuyền trước khi rời khỏi đấy”.2. Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu: Nàng Nhị Khanh con nhà gia giáo, từnhỏ là thanh mai trúc mã với Trọng Quỳ, con quan Phùng Lập Ngôn. Sau khi lấy nhau, Nhị Khanh ăn ở rất hiếu thuận, được lòng nhà chồng. Phùng Lập Ngôn vì tính tình thẳng thắn nên bị triều thần ghen ghét, phải đi làm quan ở xa, Trọng Quỳ phải theo hầu cha. Trong sáu năm đợi chồng, xảy ra nhiều biến cố: cha mẹ tạ thế, cô ruột ép gả cho tướng quân họ Bạch,… Nhị Khanh vẫn thủ tiết. Đến khi Trọng Quỳtrở về, vui mừng chưa kịp thì Nhị Khanh lại bị Trọng Quỳ vì thua bạc mà bán vợ. Nhị Khanh tự sát bỏ lại hai con. Sau về báo mộng cho Trọng Quỳ giúp hai con làm nên sự nghiệp. 3. Chuyện cây gạo: Trình Trung Ngộ là một thương buôn đẹp trai, đến Nam Xangđể buôn bán. Tình cờ gặp và tương tư Nhị Khanh. Sau, quen biết và cùng nhau ân ái một thời gian thì biết Nhị Khanh đã chết được nữa năm. Từ đó Trình Trung Ngộ sinh ra ốm nặng, còn Nhị Khanh vẫn ngày đêm đeo bám, ám ảnh. Được vài ngày thì người ta thấy Trung Ngộ ôm quan tài Nhị Khanh mà chết. Hai người này biến thành yêu ma phá hoại dân làng, bị dân làng đem vứt hài cốt xuống sông, phải bám trụ vào cây gạo. Rồi vẫn tiếp tục làm yêu ma nhưng được một thời gian thì bị đạo nhân dùng phép trừng phạt và bị giải về âm phủ chịu tội. 4. Chuyện gã Trà đồng giáng sinh: Dương Tạc làm quan nhưng làm nhiều việcthiện nên còn gọi là Dương Đức Công, tuy vậy, ông lại hiếm muộn con cái. Năm năm mươi tuổi, đột nhiên chết đi sống lại, rồi có con trai đặt tên là Thiên Tích. Nhiều năm sau, Dương Đức Công chết, Thiên Tích rất ham học hành, nhưng nhà nghèo, những người năm xưa Dương Đức Công từng giúp đỡ, thấy nghèo thì khinh bỉ, không ai giúp đỡ. May mắn được thương buôn họ Hoàng giúp đỡ và gả con gái cho. Sau này mới biết đó là nhân duyên tiền định như lời báo mộng của ông cụ họ Thạch. Vợ chồng rất mực yêu thương nhau. Thiên Tích sau này ra làm quan, là một quan tốt nhưng vẫn không quên ân oán cũ, nhất nhất phục thù. Sau, gặp được Quâng Phong, bạn cũ trên trời, bị đày xuống trần làm ăn mày, nhớ được tiền kiếp và thấy được hậu quả của kiếp này, Thiên Tích từ giả vợ con và đắc đạo thành tiên. 17Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ5. Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây: Hà Nhân là một thư sinh, lên kinh theo tòng học cụỨc Trai. Đi ngang qua Trại Tây – tư dinh cũ của Thái sư triều Trần thì gặp hai nàng Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương, bèn ngày ngày ân ái bò bê việc học. Cha mẹ cưới vợ cho thì nhất mực không chịu. Sau, biét hai nàng là yêu tinh hoa đào, hoa liễu. Hà Nhân giật mình tỉnh ngộ và lập đàn cúng hai nàng. 6. Chuyện đối tụng ở Long cung: Dương thị xinh đẹp là vợ quan Thái thú họTrịnh ở Hồng Châu, thần Thuồng Luồng có ý muốn bắt về làm vợ mình. Dù cho đã đề phòng nhưng Dương thị vẫn bị bắt mất. Trịnh thái thú rất đau khổ nhưng may mắn gặp được Bạch Long Hầu, được Bạch Long Hầu giúp đỡ, bèn kiện lên Đức vua ở Long cung. Với sự giúp đỡ của Bạch Long Hầu và sự anh minh của Đức vua nên cuối cùng vợ chồng Dương thị được đoàn tụ, còn thần Thuồng luồng thì bị trừng phạt. 7. Chuyện nghiệp oan của Đào thị: Đào thị, tiểu tự là Hàn Than, là ca kỷ ở TừSơn nhưng giỏi chữ nghĩa, được vua Dụ Tôn yêu mến, tuyển vào cung làm cung nhân, hầu hạ việc chữ nghĩa cho vua. Khi vua mất, nàng bị đuổi khỏi cung và thường qua lại nhà quan Ngụy Nhược Chân. Vợ Ngụy Nhược Chân tính hay ghen nên đã bắt nàng đánh rất tàn nhẫn, nàng thuê người trả thù nhưng không thành, phải bỏ đi tu ở chùa Thầy. Sau, có một người học trò biết được quá khứ của nàng rồi làm thơ chế giễu, nàng phải trốn khỏi chùa Thầy lên chủa Lệ Kỳ. Tại đây, dù bị sư cụ Pháp Vân ngăn cản ngay từ đầu, nhưng sư Vô Kỷ vẫn nhận nàng vào ở, rồi tư thông nhau, Hàn Than có thai, ốm lây lất, cuối cùng chết trên giường cữ. Vô Kỷ vì thương nhớ nên không lâu sau cũng chết theo. Hai người đầu thai làm hai con trai Long Thúc, Long Quý của Ngụy Nhược Chân nhằm trả thù. Chỉ còn mấy tháng nữa là âm mưu hoàn thành nhưng bị một vị thầy tu phát hiện, cuối cùng bị sư cụ Pháp Vân trừng trị. 8. Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên: Ngô Tử Văn tên Soạn, là người cươngtrực, khẳng khái và nóng nảy. Một hôm tắm rửa chay sạch, khấn vái rồi châm lửa đốt đền viên Bách hộ họ Thôi người Ngô vì ghét thói tác yêu tác quái của y. Mọi người lo sợ thay cho Tử Văn, Tử Văn cũng cảm thấy khó chịu trong người nhưng vẫn cương quyết rằng việc mình làm không sai nên không sợ gì cả. Tử Văn gặp được Thổ thần, nghe rõ nguồn cơn càng biết chắc việc mình làm là 18Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữđúng. Họ Thôi kiện Tử Văn với Diêm Vương, suýt nữa thì Tử Văn chết nhưngTử Văn tính tình cứng rắn, thẳng thắn cuối cùng thắng kiện. Họ Thôi bị đày đọa trong ngục Cửu U, Thổ thần được minh oan, cảm tạ và cho Tử văn làm chức Phán sự ở đền Tản Viên.9. Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên: Từ Thức là quan huyện Tiên Du, một lần tình cờcứu được một cô gái bị bắt vì tội hái hoa. Vốn là một người hay rượu, thích đàn, ham thơ mến cảnh nên không lâu sau Từ Thức treo ấn từ quan, ngao du sơn thủy. Một lần đi dạo ở cửa bể Thần Phù rồi vô tình lọt vào động tiên. Tại đây, chàng cưới tiên Giáng Hương – chính là cô gái cháng cứu năm xưa. Tuy ăn ở thuận hòa, sung sướng nhưng chàng vẫn nhớ trần gian, bèn quay trở về Hạ giới mặc Giáng Hương khóc lóc van xin. Hạ giới bấy giờ đã gần trăm năm sau, mọi vật đều thay đổi, chàng muốn trở lại Tiên giới cũng không được nữa, bèn vảo núi Hoành Sơn rồi không biết đi đâu mất. 10.Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào: Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giàng, làmột nguời tuấn sảng hào mại không ưa kiềm thúc. Chàng theo học nhà xữ sĩ Dương Trạm, được thầy khuyên răn trở thành người tốt. Sau, Dương Trạm chết, học trò đều tan đi, chỉ có Tử Hư ở bên cạnh chăm sóc mộ phần ba năm. Một hôm tình cờ gặp được thầy, mới biết thầy được Đức Đế quân cho làm chức trực lại ở cửa Tử Đồng. Thầy trò nói chuyện thế sự, Tử Hư còn được thầy dắt lên chơi ở Thiên Tào. Sau, phàm những việc hung cát thầy đều cho Tử Hư biết trước. 11.Chuyện yêu quái ở Xương Giang: Thị Nghi là con nhà nghèo, vì chữ hiếu nêntừ nhỏ đã bị bán cho phú thương họ Phạm. Thị Nghi lớn lên khá có tư sắc nên được họ Phạm yêu mến, rồi tư thông, vợ Phạm biết được, bèn tìm cớ đánh Thị Nghi đến chết. Hồn Thị Nghi hưng yêu tác quái, bị dân làng đào mả vứt cốt xuống sông. Sau, hồn Thị Nghi lừa viên quan họ Hoàng, nàng được họ Hoàng yêu mến, cưới về làm vợ, ân ái rất thắm thiết. Được một thời gian thì Hoàng ốm nặng, thuốc thang không khỏi. Có một người yểm bùa Thị Nghi hiện nguyên hình đống xương trắng, rồi cho người đào mộ dưới bến sông, Hoàng tỉnh lại nhưng không nhớ gì cả. Thị Nghi bàn kiện lên Diêm Vương. Họ Hoàng bị bắt 19Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữđến và khai Thị Nghi mê hoặc mình. Thị Nghi bị Diêm Vương trừng phạt bằng cực hình, họ Phạm được thả về nhưng giảm thọ một kỉ.12.Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na: Hồ Hán Thương đi săn, tìnhcờ gặp người tiều phu vừa đi vừa ca bài ca rất lạ, Hán Thương cho là ẩn giả, bèn sai Trương Công theo mời lại. Trương Công theo dấu tiều phu vào tận núi sâu. Hai người gặp gỡ và trò chuyện rất lâu, Trương Công vẫn không thuyết phục được tiều phu. Tiều phu còn tiên đoán thành bại của nhà Hồ cho Trương Công nghe. Trương Công về tâu hết lại những lời nói của tiều phu cho Hán Thương nghe. Hán Thương không tin, cho cỗ xe êm đến quyết đoán rướt bằng được tiều phu nhưng đến nơi chỉ thấy hang động, cây cối, và hai câu thơ châm biếm. Hán Thương tức giận đốt núi, nhưng chỉ thấy chim hạt đen lượn trên không bay múa. Sau, thành bại của nhà Hồ y như lời đoán. 13.Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào: Văn Tư Lập là quan huyện ĐôngTrào. Huyện thờ rất nhiều thần Phật nhưng sau chiến tranh, chùa chiền bị hư hại rất nhiều, tuy có sữa chửa nhưng cũng chỉ được chút ít. Làm quan được một năm, Văn Tư Lập thấy dân nhân đói khổ, khó khăn, nạn trộm cắp liên tục xảy ra. Văn Tư Lập cho điều tra thì biết không phải người làm mà do yêu tinh tác quái, bèn tìm đến Vương tiên sinh là người giỏi bói Dịch và được chỉ dẫn. Văn Tư Lập và dân làng làm theo, cuối cùng biết được do hai pho tượng Hộ pháp trong cái chùa hoang và tượng Thủy thần trong miếu Thủy thần làm, họ lắc đầu ngao ngán rồi phá chùa, đập tượng, từ đấy cuộc sống dần yên ổn. 14.Chuyện nàng Túy Tiêu: Dư Nhuận Chi là người hay thơ, một hôm vào yết kiếnquan Nguyễn Trung Ngạn, được Nguyễn Trung Ngạn yêu mến tặng cho một con hát xinh đẹp, thông tuệ tên là Túy Tiêu. Hai người kết duyên vợ chồng, ngày đêm ân ái không nỡ xa lìa. Nhuận Chi lên kinh ứng thí cũng mang theo Túy Tiêu. Tình cờ, Túy Tiêu bị quan Trụ quốc họ Thân để mắt và bị bắt về phủ làm vợ lẽ. Nhuận Chi kiện lên quan nhưng ai cũng sợ, né tránh Trụ quốc họ Thân nên không ai xét xử cho chàng. Nhuận Chi bỏ thi, vô cùng đau khổ chỉ biết than thở với chim yểng. Chim yểng hiểu ý người nên tìm gặp Túy Tiêu. Túy Tiêu biết tin chồng buồn đến phát ốm. Nhuận Chi bất đắc dĩ vào làm khách của họ Thân, tuy nhiên chưa bao giờ Túy Tiêu và Nhuận Chi gặp mặt nhau. 20Luận văn tốt nghiệp Thế giới nhân vật trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn DữMột năm sau, vào Tết trung thu, được lão bộc giúp đỡ, hai người được đoàn tụ nhưng phải lẫn trốn gần chục năm trời, đến khi Trụ quốc bị tội mới dám về kinh sư, Nhuận Chi thi đỗ Tiến sĩ, hai người sống với nhau đến già.15.Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang: Trần Phế Đế đi săn, đỗ lại trên sông Đà, banđêm mở tiệc. Cáo tinh và Vượn tinh lo chim muôn bị giết nên biến thành tú tài họ Viên và xử sĩ họ Hồ đến yết kiến. Vua say rượu nên cho Hồ Quý Ly tiếp chuyện. Nói chuyện hồi lâu, mục đích ban đầu của Vượn tinh và Cáo tinh không thành, bèn cáo lui. Hồ Quý Ly sinh nghi từ lâu bèn cho người bí mật theo dõi thì thấy Vượn tinh và Cáo tinh từ từ biến lại hình dạng cũ rồi biến mất. 16.Chuyện người con gái Nam Xương: Vũ Thị Thiết, còn gọi là Vũ Nương, quêNam Xương, đẹp người đẹp nết về làm vợ chàng Trương Sinh có tính hay ghen. Vợ chồng ăn ở rất hòa thuận, Vũ Nương ăn ở theo khuôn phép, rất ý tứ nên được lòng bên chồng. Sau, vì binh biến, dù là con nhà dòng nhưng Trương sinh vẫn phải ra trận, lúc này Vũ Nương đang mang thai sắp sinh nở. Khi Trương Sinh trở về thì con thơ đã bắt đầu biết nói còn mẹ già thì đã mất. Bé Đản – con Trương sinh và Vũ Nương, không chịu nhận Trương là cha, còn nói cha nó đêm nào cũng đến với nó và mẹ nó. Vốn tính hay ghen, Trương nghi ngờ vợ rồi không ngừng mắng mỏ, đánh đuổi. Hỏi thì chàng không nói, hàng xóm can ngăn chàng cũng không nghe. Vũ Nương bèn trầm mình tự vận để chứng minh trong sạch. Được Linh Phi thương tình cứu vớt và cho hầu hạ dưới thủy cung. Trong làng có Phan Lang, vì từng có ơn cứu mạng Linh Phi nên được xuống thủy cung và gặp Vũ Nương, lên bờ thuật lại cho Trương nghe. Trương lúc này cũng đã biết rõ ngọn nguồn nổi oan của vợ, hối hận cũng đã muộn, bèn lập đàn cúng ở bến sông minh oan cho vợ. Vũ Nương trở về nhân gian gặp chồng rồi nói cảm ơn đức của Linh Phi nên muốn hầu hạ và không bao giờ trở về nhân gian nữa. 17.Chuyện Lý tướng quân: Lý Hữu Chi xuất thân là một nông dân nhưng có sứckhỏe và giỏi đánh trận nên được tiến cử, dần dần làm được Lý tướng quân. Từ ngày làm quan lớn, Lý ỷ thế làm nhiều điều sai trái, mẹ già, và con khuyên điều không nghe. Sau, có thầy tướng số cho Lý biết trước được hậu quả, tương lai của mình và khuyên nên tích đức từ bây giờ nhưng Lý vẫn chứng nào tật nấy 21