Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023

Trương Quốc Vinh

Show
Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023

Trương Quốc Vinh năm 1998

SinhTrương Phát Tông[1]
12 tháng 9 năm 1956
Cửu Long, Hồng Kông thuộc Anh
Mất1 tháng 4 năm 2003 (46 tuổi)
Mandarin Oriental, Trung Hoàn, Hồng Kông, Trung Quốc
Nguyên nhân mấtTự sát
Nơi an nghỉĐồi Bảo Phúc, Sa Điền
Tư cách công dân

  • Canada
  • Đặc khu hành chính Hồng Kông

Trường lớpĐại học Leeds
Nghề nghiệp

  • Ca sĩ
  • diễn viên

Năm hoạt động1977–2003
Cha mẹ

  • Trương Hoạt Hải (cha)
  • Phan Ngọc Dao (mẹ)

Sự nghiệp âm nhạc
Tên gọi khácCa ca (tiếng Trung: 哥哥; nghĩa đen: "Anh trai")
Thể loại

  • Cantopop
  • Mandopop

Nhạc cụHát
Hãng đĩa

  • Polydor
  • Capital
  • Cinepoly
  • Rock
  • Universal

Trương Quốc Vinh
Phồn thể張國榮
Giản thể张国荣
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữZhāng Guóróng
Tiếng Quảng Châu
Việt bínhZoeng1 Gwok3-wing4
Trương Phát Tông
Phồn thể張發宗
Giản thể张发宗
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữZhāng Fāzōng
Tiếng Quảng Châu
Việt bínhZoeng1 Faat3-zung1
Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023

Trương Quốc Vinh (12 tháng 9 năm 1956 – 1 tháng 4 năm 2003), tên khai sinh là Trương Phát Tông, là một nam ca sĩ kiêm diễn viên người Canada gốc Hồng Kông.[2] Qua 26 năm sự nghiệp, bắt đầu từ năm 1977 cho đến khi qua đời, Trương Quốc Vinh đã phát hành khoảng 40 album và tham gia diễn xuất trong khoảng 60 bộ phim.[3][4] Anh là ca sĩ tiên phong, định hình bản sắc cho dòng nhạc Cantopop trong suốt thập niên 1980.[5] Trương Quốc Vinh còn là một biểu tượng của nền điện ảnh Hoa ngữ. Nhiều bộ phim mà anh tham gia diễn xuất như Xuân quang xạ tiết (1997), Bá vương biệt Cơ (1993), A Phi chính truyện (1990), đã trở thành những tác phẩm kinh điển. Anh là một trong số ít ngôi sao châu Á công khai đóng các vai diễn đồng tính nam, tích cực tham gia các hoạt động giành quyền lợi cho cộng đồng LGBT.[6][7]

Trương Quốc Vinh sinh năm 1956 tại Cửu Long, Hồng Kông, sớm sang Anh du học từ năm 12 tuổi. Anh trở về Hồng Kông rồi bước chân vào làng giải trí vào năm 1977, sau khi giành giải nhì một cuộc thi âm nhạc. Sự nghiệp âm nhạc của Trương Quốc Vinh thuở ban đầu không mấy thuận lợi và chỉ bắt đầu khởi sắc khi anh phát hành album Gió tiếp tục thổi vào năm 1982. Năm 1984, anh cho ra mắt ca khúc "Monica", một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất lịch sử âm nhạc đại chúng Hồng Kông. Năm 1987, album Summer Romance của Trương Quốc Vinh trở thành album bán chạy nhất năm ở Hồng Kông với hơn 700 nghìn bản tiêu thụ. Ở lĩnh vực điện ảnh, Trương Quốc Vinh ghi những dấu ấn đầu tiên với các vai diễn trong Liệt hỏa thanh xuân (1982) và Anh hùng bản sắc (1986).

Sau khi tuyên bố giã từ sân khấu âm nhạc vào năm 1989, Trương Quốc Vinh tập trung cho sự nghiệp diễn xuất và gặt hái được nhiều thành tích trong những năm 1990. Đặc biệt, vai diễn nghệ sĩ kinh kịch Trình Điệp Y trong Bá vương biệt Cơ (1993) đã đưa tên tuổi của Trương Quốc Vinh đến với khán giả phương Tây, là nét tô điểm đậm nhất cho thành công ở lĩnh vực điện ảnh của anh. Năm 1995, Trương Quốc Vinh trở lại với ngành công nghiệp âm nhạc, một năm sau, phát hành album Hồng nhận được sự tán dương nhiệt liệt.

Ngày 1 tháng 4 năm 2003, Trương Quốc Vinh nhảy lầu tự sát từ tầng 24 khách sạn Mandarin Oriental, khu Trung Hoàn, Hồng Kông. Nguyên nhân Trương Quốc Vinh tự sát được cho là do căn bệnh trầm cảm lâu năm.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Trương Quốc Vinh, tên khai sinh là Trương Phát Tông, sinh ngày 12 tháng 9 năm 1956 trong một gia đình trung lưu tại Cửu Long, Hồng Kông.[1][8][9][10] Cha anh là ông Trương Hoạt Hải còn mẹ anh là bà Phan Ngọc Dao.[11] Trương Hoạt Hải là một thợ may có tiếng, từng may quần áo cho Marlon Brando, Cary Grant và nhà làm phim Alfred Hitchcock.[12] Ông cũng được biết đến là một người đàn ông phong lưu, đa tình.[5] Trương Hoạt Hải và Phan Ngọc Dao có với nhau mười người con, trong đó ba người qua đời từ khi còn nhỏ, Trương Quốc Vinh là con út.[8] Vì quá bận rộn, cha mẹ Trương Quốc Vinh gửi các con cho bà ngoại nuôi. Bà ngoại nhiều tuổi, nên Trương Quốc Vinh cùng các anh chị em chủ yếu sống dưới bàn tay chăm sóc của cô bảo mẫu tên Sáu, người mà Trương Quốc Vinh xem là "người phụ nữ vĩ đại nhất".[8] Anh tự nhận mình thuở nhỏ là một đứa trẻ kỳ quặc, không giống trẻ con, ít nói và chẳng bao giờ được người khác đoái hoài, để tâm. Trương Quốc Vinh không gần gũi với cả cha lẫn mẹ, cho rằng "duyên phận" của mình với đấng sinh thành quá mỏng manh.[8] Anh từng hối hận: “Điều đáng tiếc nhất trong cuộc đời tôi là đã có quá ít thời gian với cha mẹ. Kể từ khi tôi sinh ra tới khi họ mất đi, tôi chỉ được sống cùng cha vỏn vẹn năm ngày, với mẹ đại khái nửa năm.”[13]

Trong thời kỳ mà Hồng Kông vẫn còn thuộc Anh, Trương Quốc Vinh dễ dàng sang Anh du học khi mới chỉ 12 tuổi. Theo học Trường Norwich ở Norfolk, anh bị kỳ thị vì là người châu Á. Tốt nghiệp cấp ba, Trương Quốc Vinh học tiếp chuyên ngành Quản lý dệt may tại Đại học Leeds. Ở trường đại học, anh bắt đầu phát huy năng khiếu ca hát, trở thành ca sĩ nghiệp dư, đi hát ở một số tụ điểm, phòng trà.[3] Chưa hoàn thành chương trình học, Trương Quốc Vinh đã phải bỏ về Hồng Kông khi hay tin cha lâm bệnh nặng.[14][15]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023
Nam diễn viên người Anh Leslie Howard là nguồn cảm hứng để Trương Quốc Vinh chọn cho mình cái tên tiếng Anh Leslie Cheung[16]

Năm 1977, tham gia và giành giải nhì Cuộc thi Âm nhạc châu Á do Rediffusion Television tổ chức, Trương Quốc Vinh chính thức bước chân vào làng giải trí.[17] 21 tuổi, anh ký hợp đồng với Polydor Records.[3] Lần lượt trong hai năm 1977 và 1979, Trương Quốc Vinh cùng Polydor cho ra mắt hai album Day Dreamin' và Tình nhân tiễn.[18] Những năm đầu làm ca sĩ chuyên nghiệp, Trương Quốc Vinh bị chỉ trích là còn quá non nớt và có "giọng hát nghe như gà".[12] Anh phải nhận những lời la ó từ khán giả trong buổi diễn đầu tiên trước công chúng. Với việc ba album đầu tay đều mang về doanh thu đáng thất vọng, Polydor Records quyết định chấm dứt hợp đồng với nam ca sĩ.[19] Năm 1982, Trương Quốc Vinh gia nhập Capital Artists, bắt đầu nổi tiếng khi phát hành album đột phá Gió tiếp tục thổi được khán giả yêu thích cuồng nhiệt.[18][20][21] Ca khúc cùng tên, "Gió tiếp tục thổi", là một trong những ca khúc gắn liền với tên tuổi Trương Quốc Vinh sau này.[22] Năm 1984, anh cho ra mắt ca khúc "Monica" giành Giải Top 10 Ca khúc vàng Trung Quốc do Đài Truyền hình Hồng Kông trao.[23] "Monica" trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất lịch sử âm nhạc đại chúng Hồng Kông, giúp truyền cho người Hồng Kông niềm đam mê ca vũ.[5] Sự nghiệp âm nhạc của Trương Quốc Vinh tiếp tục thăng hoa với các album như Chung tình vì người (1985) và Allure Me (1986).[18]

Tương tự âm nhạc, sự nghiệp điện ảnh của Trương Quốc Vinh có khởi đầu không mấy xán lạn.[18] Năm 1977, anh đóng vai Giả Bảo Ngọc trong Hồng lâu xuân thượng xuân. Vì trong phim có nhiều cảnh nóng táo bạo với bạn diễn, Trương Quốc Vinh bị gán mác đóng phim cấp ba. Anh từng chia sẻ rằng mình bị lừa tham gia Hồng lâu xuân thượng xuân, trước khi đóng phim anh hoàn toàn không biết trong phim có cảnh nóng.[24] Hai năm liên tiếp 1980 và 1981, Trương Quốc Vinh đảm nhận các vai phụ trong hai bộ phim Hát thải và Thất nghiệp sinh. Với Thất nghiệp sinh, anh nhận đề cử Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ nhất.[25] Sau đề cử này, Trương Quốc Vinh nhận lời mời đóng vai nam chính trong bộ phim Nịnh mông khả nhạc (1982). Kể từ đó, hầu như anh luôn đảm nhận vai chính trong các bộ phim mà mình tham gia.[26] Năm 1983, nhờ vai diễn Louis trong Liệt hỏa thanh xuân, Trương Quốc Vinh nhận đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 2.[27][28]

Bắt đầu gặt hái vinh quang[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1986, Trương Quốc Vinh gia nhập Cinepoly Records.[23] Năm 1987, album Summer Romance của anh bán được hơn 700 nghìn bản ở Hồng Kông, trở thành album bán chạy nhất Hồng Kông năm đó, theo thống kê của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm quốc tế.[29] Thập niên 1980, Trương Quốc Vinh cùng với Đàm Vịnh Lân là hai tên tuổi lớn nhất, cạnh tranh nhau ở làng nhạc Hoa ngữ.[30] Trong những năm gắn bó với Cinepoly Records, Trương Quốc Vinh đã phát hành một số album đáng nhớ khác như Hot Summer (1988), Virgin Snow (1988), Final Encounter (1989), và Salute (1989). Đặc biệt, Salute là album phi lợi nhuận đầu tiên được phát hành bởi một siêu sao trong lịch sử âm nhạc Hồng Kông. Trương Quốc Vinh từng nói Salute là sự tôn kính mà anh dành cho âm nhạc. Anh quyên góp tất cả số tiền thu được từ việc bán album Salute cho Học viện Nghệ thuật Biểu diễn Hồng Kông, về sau trở thành quỹ Học bổng Tưởng nhớ Trương Quốc Vinh.[23]

Giữa những năm 1980 đến giữa những năm 1990 là thời kỳ hoàng kim của ngành công nghiệp điện ảnh Hồng Kông, đây cũng là khoảng thời gian mà kỹ năng diễn xuất của Trương Quốc Vinh đạt tới độ chín.[23] Anh đóng vai Tống Tử Kiệt trong Anh hùng bản sắc (1986) của đạo diễn Ngô Vũ Sâm, bên cạnh Địch Long và Châu Nhuận Phát.[31] Anh hùng bản sắc đưa tên tuổi của Trương Quốc Vinh vươn tầm sao hạng A được nhiều người biết đến, từng bước trở thành diễn viên có sức ảnh hưởng nhất Hồng Kông, để có thêm những tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp ở giai đoạn thập niên 1990.[32] Trương Quốc Vinh sắm vai chàng thư sinh Ninh Thái Thần trong Thiện nữ u hồn (1986) của đạo diễn Từ Khắc.[33] Màn kết đôi của Trương Quốc Vinh và Vương Tổ Hiền trong Thiện nữ u hồn đã để lại dấu ấn khó quên trên màn ảnh Hồng Kông và cũng chính từ bộ phim này mà nam nghệ sĩ có cho mình biệt danh "Ca ca".[34] Hai vai diễn trong Anh hùng bản sắc II (1987) và Yên chi khâu (1988) mang về cho Trương Quốc Vinh hai đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 7 và thứ 8.[35][36]

Trong một buổi biểu diễn năm 1989, Trương Quốc Vinh thể hiện ca khúc "Gió tiếp tục thổi" trong nước mắt và chính thức tuyên bố dừng nghiệp ca hát, tập trung cho lĩnh vực điện ảnh.[37] Năm 1990, anh di cư tới Canada, mua một ngôi nhà ở khu British Properties, Vancouver. Suốt năm năm, Trương Quốc Vinh hạn chế gây chú ý, đảm bảo tư cách công dân Canada.[38]

Đỉnh cao điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Tôi không muốn trở thành Trình Điệp Y. Cá nhân tôi không muốn trở thành anh ấy. Thành thật mà nói, tôi may mắn hơn anh ấy rất nhiều, nhưng tôi vẫn thích đóng vai một nhân vật như anh ấy, vì tôi thích đóng những nhân vật bi thảm.

– Trương Quốc Vinh nói về vai diễn để đời của mình[39]

Sau khi tuyên bố giã từ sân khấu âm nhạc, Trương Quốc Vinh tập trung vào sự nghiệp diễn xuất và những nỗ lực của anh nhanh chóng được đền đáp.[20] Năm 1991, nhờ vai diễn Húc Tử trong A Phi chính truyện (1990) của đạo diễn Vương Gia Vệ, Trương Quốc Vinh nhận giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 10, giải thưởng tiêu biểu đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất của anh.[40]

Hai bộ trang phục (phải) mà Trương Quốc Vinh mặc trong Bá vương biệt Cơ (1993)

Thành công ở lĩnh vực điện ảnh của Trương Quốc Vinh được tô điểm đậm nhất có lẽ là nhờ vai diễn nghệ sĩ kinh kịch Trình Điệp Y trong Bá vương biệt Cơ (1993) của đạo diễn Trần Khải Ca.[41][42] Bá vương biệt Cơ giành giải Cành cọ Vàng tại Liên hoan phim Cannes lần thứ 46, Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Giải Quả cầu vàng lần thứ 51, nhận đề cử Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Giải Oscar lần thứ 66, đưa tên tuổi của Trương Quốc Vinh đến với khán giả phương Tây.[43][44] Cũng tại Liên hoan phim Cannes, với vai diễn Trình Điệp Y, một giám khảo đã bỏ phiếu cho Trương Quốc Vinh ở cả hai đề cử Nam và Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.[45][46]

Năm 1994, anh đóng vai Âu Dương Phong trong Đông Tà, Tây Độc của Vương Gia Vệ.[47] Vai diễn này mang về cho Trương Quốc Vinh giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông.[48] Kim chi ngọc diệp (1994) và Sắc tình nam nữ (1996) giúp Trương Quốc Vinh nhận thêm hai đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 14 và thứ 16.[49][50] Anh tiếp tục hợp tác với Vương Gia Vệ khi đóng chính cùng Lương Triều Vỹ trong Xuân quang xạ tiết (1997) – được xem là một trong những bộ phim đề tài LGBT hay nhất trong làn sóng New Queer Cinema.[51][52] Năm 1998, với Xuân quang xạ tiết, cả Trương Quốc Vinh lẫn Lương Triều Vỹ đều nhận đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 17 và Lương Triều Vỹ là người đoạt giải.[53] Trương Quốc Vinh luôn là một tên tuổi bảo chứng cho doanh thu phòng vé. Từ năm 1990 đến 1998, 13 trong tổng số 39 phim mà anh tham gia đã lọt vào Top 10 phim có doanh thu phòng vé cao nhất Hồng Kông.[54] Khoảng thời gian này, một số bộ phim đáng nhớ khác của Trương Quốc Vinh có thể kể đến như Gia hữu hỷ sự (1992), Bạch phát ma nữ (1995), Dạ bác ca thanh (1995).[55]

Trở lại với âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023
Trương Quốc Vinh trong một buổi hòa nhạc năm 1997

Năm 1995, Trương Quốc Vinh quyết định quay trở lại ngành công nghiệp âm nhạc, ký hợp đồng với Rock Records và phát hành album tái xuất Sủng ái.[23] Cùng Rock Records, Trương Quốc Vinh cho ra mắt Hồng (1996), có thể xem là album được hoan nghênh nhất của anh. Hồng là một album kết hợp, pha trộn mượt mà jazz, R&B, trip hop,... vào Cantopop, tạo nên một phong cách độc đáo nhất quán.[23] Xa rời Nhà thi đấu Hồng Kông tám năm, Trương Quốc Vinh tái xuất sân khấu này với Live in Concert 97. Khi trình diễn ca khúc Hồng trong đêm nhạc, anh đã mặc một bộ vest đen lung linh và đi đôi giày cao gót đính sequin đỏ lấp lánh.[56] Năm 1999, Trương Quốc Vinh ký hợp đồng với Universal Music và thành lập công ty riêng Apex Music, qua đây phát hành một số album như Cùng em đếm ngược (1999), Đại nhiệt (2000), Untitled (2000).[18][57] Năm 2000, Trương Quốc Vinh tổ chức tua diễn cuối cùng của mình, Passion Tour.[23] Toàn bộ trang phục trong tua diễn này của Trương Quốc Vinh, ở thời điểm đó, từng bị báo chí chỉ trích vì hình tượng phi giới tính táo bạo.[58] Dù vậy, Passion Tour vẫn nhận được những đánh giá cao từ giới nghệ thuật, trong đó có nữ ca sĩ Madonna.[59] Cùng năm, anh được trao giải Kim vàng, giải thưởng thành tựu trọn đời của dòng nhạc Cantopop.[23]

Hai năm 1999 và 2000, Trương Quốc Vinh tham gia một vài bộ phim: Lưu tinh ngữ (1999), Tình nguyệt đồng thoại (1999), Súng thần (2000).[60] Trương Quốc Vinh đã khắc họa một cách xuất sắc tâm lý nhân vật La Bổn Lương trong Dị độ không gian (2002), bộ phim cuối cùng của anh trước khi qua đời vào năm 2003.[61] Anh cũng từng thử sức trong vai trò đạo diễn với đoạn phim tuyên truyền chống thuốc lá dài gần 40 phút Yên phi yên diệt (2000).[12]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Trong cuộc sống, Trương Quốc Vinh được mô tả là người bình dị, luôn lo nghĩ cho bạn bè và mọi người xung quanh.[62] Anh sinh hoạt khá chỉn chu, nền nếp, coi trọng sức khỏe, không rượu chè thuốc lá, không sinh hoạt đêm.[63] Trương Quốc Vinh luôn chú ý phát hiện, đào tạo và giúp đỡ tài năng trẻ. Rất nhiều nghệ sĩ Đài Loan, Hồng Kông như Lê Minh, Cổ Thiên Lạc, Vương Lực Hoành, Thư Kỳ, Mạc Văn Úy, Viên Vịnh Nghi, Trương Vệ Kiện, Cổ Cự Cơ, Dương Thái Ni,… đều từng nhận sự giúp đỡ từ anh.[29] Mặc dù xuất thân từ tầng lớp trung lưu nhưng Trương Quốc Vinh rất hào phóng với số tiền mình kiếm được. Khi một trận động đất xảy ra ở Đài Loan vào năm 1999, Trương Quốc Vinh tham gia một buổi gây quỹ từ thiện, và sau khi thử món cơm rang do Trần Bảo Châu nấu, anh lập tức quyên góp được 250.000 đô la Hồng Kông (khoảng 32.250 đô la Mỹ).[12]

Trương Quốc Vinh đã trải qua một vài mối tình với cả nam lẫn nữ.[64] Anh cũng từng thừa nhận "Đúng ra thì tôi giống một người song tính."[65] Năm 1977, khi mới bước chân vào làng giải trí, anh có mối tình đầu với Nghiêm Mễ Tuyết, một cô gái 14 tuổi. Cả hai hẹn hò thời gian ngắn rồi chia tay vì khác biệt trong tính cách. Trương Quốc Vinh thích sự tĩnh lặng còn Nghiêm Mễ Tuyết năng động, ưa náo nhiệt.[66] Sau Nghiêm Mễ Tuyết, anh bị đồn hẹn hò diễn viên Nghê Thi Bội khi đóng phim cùng cô năm 1981. Mối tình này được cho là cũng chỉ kéo dài hai năm.[64] Mao Thuấn Quân là cô gái đầu tiên mà Trương Quốc Vinh công khai quan hệ yêu đương.[64] Hai người gặp nhau khi cùng làm người dẫn chương trình cho một chương trình ca nhạc.[67] Trương Quốc Vinh từng cầu hôn Mao Thuấn Quân nhưng không được đồng ý vì lúc bấy giờ nữ diễn viên nghĩ anh còn non trẻ, chưa đủ sâu sắc, vững chãi. Không thành vợ chồng, Thuấn Quân–Quốc Vinh vẫn là đôi bạn gắn bó.[64] Tuy nhiên, mối tình được nhắc đến nhiều nhất của Trương Quốc Vinh phải là mối tình đồng tính với Đường Hạc Đức.[64] Đường Hạc Đức sinh năm 1958, vốn là con trai đỡ đầu của mẹ Trương Quốc Vinh. Cả hai quen biết nhau từ nhỏ, mối quan hệ của họ bắt đầu từ năm 1983 và chuyện tình cảm giữa hai người về hình thức vẫn luôn được giữ kín.[68] Năm 1997, tại một trong những buổi hòa nhạc thuộc tua diễn vòng quanh thế giới, Trương Quốc Vinh công khai giới thiệu Đường Hạc Đức là người yêu.[69] Sau sự kiện này, Trương Quốc Vinh ngày càng tự tin hơn. Anh thể hiện rõ cá tính của mình trên sân khấu và mặc nhiều bộ trang phục lòe loẹt, hào nhoáng trong các màn trình diễn vào những năm cuối đời. Nhiều người đã chỉ trích và công kích hình ảnh của Trương Quốc Vinh trong vai trò nhân vật công chúng.[69] Anh là diễn viên đóng vai đồng tính nam nhiều nhất trên màn ảnh Hoa ngữ và rất tích cực tham gia các hoạt động giành quyền lợi cho cộng đồng LGBT.[7]

Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Tuyệt vọng! Cảm ơn tất cả bạn hữu của tôi. Cảm ơn bác sĩ Felicia. Năm nay thật tồi tệ. Tôi không thể chịu đựng thêm. Cảm ơn anh Đường. Cảm ơn gia đình. Cảm ơn chị Phi. Đời tôi chưa làm gì sai, sao mọi thứ lại diễn ra như vậy?

– Trương Quốc Vinh viết trong thư tuyệt mệnh[44]

Ngày 1 tháng 4 năm 2003, tại khách sạn Mandarin Oriental, Trương Quốc Vinh nhảy lầu tự sát từ tầng 24, hưởng dương 46 tuổi.[70] Nhiều người đã tin rằng tin tức về cái chết của anh chỉ là một trò đùa ngày Cá tháng Tư.[71]

Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023
Khách sạn Mandarin Oriental, khu Trung Hoàn, Hồng Kông

Theo Trần Thục Phân, quản lý của Trương Quốc Vinh, trước khi qua đời, nam nghệ sĩ gọi điện thoại cho Lưu Đức Hoa, nhưng Lưu Đức Hoa không thể bắt máy vì bận công việc. Trương Quốc Vinh còn nhắn tin cho bạn trai Đường Hạc Đức, hẹn đi chơi đá bóng vào buổi tối. Tiếp đó, anh mới gọi điện rủ Trần Thục Phân tới khách sạn Mandarin Oriental uống cà phê. Đến nơi mà vẫn chưa thấy Trương Quốc Vinh, Trần Thục Phân gọi điện và nhận được hồi đáp: "Chị đợi tôi ở ngoài khách sạn, năm phút nữa gặp mặt." Khi vừa chạy ra khỏi khách sạn, Trần Thục Phân thấy bóng Trương Quốc Vinh nhảy từ tầng 24. Cô ngay lập tức cởi áo khoác, che đi gương mặt của Trương Quốc Vinh.[70] Sau khi được chuyển tới Bệnh viện Queen Mary, anh được xác nhận tử vong vào hồi 7 giờ 6 phút chiều.[71] Cảnh sát tìm thấy trên thi thể lá thư tuyệt mệnh, bằng lái xe, chứng minh thư, hai thẻ tín dụng, chìa khóa xe, điện thoại di động, bật lửa, ví tiền có 9.200 đô la Hồng Kông, vé đậu xe tháng và một chiếc khẩu trang màu xanh.[72] Theo các nguồn tin, năm 1988, Trương Quốc Vinh mua bảo hiểm tai nạn và thương vong trị giá 2 triệu đô la Mỹ. Năm 2001, anh lại mua thêm 1 triệu đô la Mỹ bảo hiểm nhân thọ.[73]

Về hoạt động của Trương Quốc Vinh ngay trước thời điểm tự sát, theo lời các nhân viên khách sạn, anh đi vào phòng tập thể dục ở tầng 24 khách sạn Mandarin Oriental từ lúc 4 giờ chiều ngày 1 tháng 4. Một nhân chứng khác thì thấy Trương Quốc Vinh đứng ở tầng 4 khách sạn chờ ai đó. Lát sau, có hai người đàn ông đến gặp, một trong hai là Đường Hạc Đức. Theo tờ Apple Daily, Trương Quốc Vinh ghé một câu lạc bộ kín nằm trong khách sạn Mandarin Oriental mà anh là khách quen. Anh uống một ít rượu rồi bước ra hành lang ngắm Cảng Victoria, yêu cầu phục vụ cho mượn giấy và bút để viết thư tuyệt mệnh.[72]

Nguyên nhân thật sự cho quyết định tự sát của Trương Quốc Vinh vẫn còn là ẩn số với người hâm mộ.[22] Có thông tin cho rằng anh bị trầm cảm nặng vì quá nhập vai trong Dị độ không gian (2002).[74] Có người lại cho là anh đau khổ vì mối tình đồng tính với Đường Hạc Đức không thể công khai hay có kết cục tốt đẹp.[22] Trương Quốc Vinh chưa bao giờ tiết lộ căn bệnh trầm cảm nhiều năm của mình, cho tới ngày anh chọn cái chết. Chỉ Đường Hạc Đức, chị gái, quản lý Trần Thục Phân và bác sĩ điều trị biết về bệnh tật của anh.[14] Theo lời người chị cả của Trương Quốc Vinh, một bác sĩ từng giải thích rằng bệnh trầm cảm mà em trai cô phải vật lộn là do sự mất cân bằng sinh lý học, hóa học trong não bộ chứ không phải vì áp lực công việc.[75]

Di sản và tưởng nhớ[sửa | sửa mã nguồn]

20 năm làm nghệ thuật, Trương Quốc Vinh luôn là ngôi sao đẳng cấp. Anh dường như là người được Thượng đế chọn để hoàn thành sứ mệnh, một người hiếm có. Nếu không có Trương Quốc Vinh, những gì thế giới hiểu về châu Á qua điện ảnh sẽ còn hạn chế. Thế giới nhận ra rằng ngoài võ thuật, đánh đấm, điện ảnh Hồng Kông còn có một Trương Quốc Vinh đầy chiều sâu.

– Tạp chí Cut của Nhật Bản nói về Trương Quốc Vinh[34]

Trương Quốc Vinh là nghệ sĩ xuất chúng của nền âm nhạc, điện ảnh Hoa ngữ, có ảnh hưởng sâu rộng tại châu Á.[76]

Trong vai trò ca sĩ, anh là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của làng nhạc nhẹ Hồng Kông, nguồn cảm hứng cho nhiều ca sĩ, trong đó có cả Tứ đại thiên vương, gồm Lê Minh, Lưu Đức Hoa, Trương Học Hữu và Quách Phú Thành.[29][77] Không sở hữu giọng hát quá tốt nhưng nhờ có khả năng làm chủ sân khấu xuất sắc mà Trương Quốc Vinh được truyền thông ví như "Elvis của Hồng Kông".[14] Anh là ca sĩ người Hoa đầu tiên nổi danh ở Hàn Quốc, một số đĩa nhạc của anh từng rất gây chú ý ở nước này. Nhờ Trương Quốc Vinh mà các nhà kinh doanh ở Hàn Quốc bắt đầu tăng cường nhập khẩu đĩa nhạc Hoa.[29] Trương Quốc Vinh cũng là nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên tổ chức tới 16 buổi hòa nhạc tại Nhật Bản.[57] Năm 2005, Sở Bưu điện Hồng Kông phát hành một bộ tem tôn vinh các ngôi sao ca nhạc quá cố, trong đó có Trương Quốc Vinh.[78] Năm 2010, anh là ngôi sao châu Á duy nhất có mặt trong Top 5 "Biểu tượng Âm nhạc toàn cầu" do CNN tổ chức bình chọn, sau Michael Jackson và The Beatles.[79] Năm 2012, Trương Quốc Vinh là cái tên Hồng Kông duy nhất xuất hiện trong danh sách 20 ca sĩ hoặc nhóm nhạc nổi tiếng nhất thế giới nửa thể kỷ qua do CNN và Songlines đồng tổ chức bình chọn.[29]

Ngôi sao không dấu tay của Trương Quốc Vinh tại Đại lộ Ngôi sao

Trong vai trò diễn viên, Trương Quốc Vinh cũng là một biểu tượng của nền điện ảnh Hoa ngữ.[29] Hơn 24 năm, anh đã đóng khoảng 60 bộ phim. Rất nhiều trong số đó, như Xuân quang xạ tiết (1997), Bá vương biệt Cơ (1993), A Phi chính truyện (1990), đã trở thành những tác phẩm kinh điển.[4] Trương Quốc Vinh từng được mời làm giám khảo tại Liên hoan phim quốc tế Tokyo năm 1993 và Liên hoan phim quốc tế Berlin năm 1998.[80][81] Ánh mắt của Trương Quốc Vinh trên phim, cách diễn đạt, thần thái tự nhiên của anh thường được các diễn viên khác học tập. Ngoài việc sở hữu lượng người hâm mộ đông đảo, anh còn là thần tượng của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng.[29] Hiệp hội điện ảnh Hồng Kông cũng khẳng định Trương Quốc Vinh vẫn là nghệ sĩ được yêu mến trong suốt nhiều năm qua.[82] Vương Gia Vệ cho rằng Trương Quốc Vinh sinh ra cho điện ảnh, Từ Khắc thì tuyên bố "Không thể tìm được nghệ sĩ thứ hai như Trương Quốc Vinh. Anh ấy là một tượng đài nghệ thuật."[83][84] Trần Khải Ca từng luyến tiếc: “Tôi luôn nghĩ Trương Quốc Vinh thuộc về thời đã qua. Đó là vì anh ấy có một đôi mắt chỉ có thể thấy trong những giấc mơ phù hoa về quá khứ của chúng ta.”[41] Năm 2006, đài NHK tổ chức bình chọn 10 diễn viên nước ngoài được yêu thích nhất tại Nhật Bản. Dù đã qua đời, Trương Quốc Vinh là nam nghệ sĩ người Hoa duy nhất lọt vào danh sách.[85] Năm 2010, CNN bình chọn Trương Quốc Vinh là một trong 25 diễn viên châu Á vĩ đại nhất lịch sử.[34]

Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023
Một lễ tưởng niệm 3 năm ngày Trương Quốc Vinh qua đời

Trong một chương trình của BBC, tiến sĩ Travis Kong, phó giáo sư chuyên nghiên cứu về giới tính và tình dục của Đại học Hồng Kông, đã bàn về sức ảnh hưởng của Trương Quốc Vinh tới cộng đồng LGBT.[69] Những bộ phim đồng tính xuất sắc mà anh tham gia chính là minh chứng cho cống hiến và tầm ảnh hưởng của anh đối với vấn đề vượt qua rào cản giới tính của điện ảnh Hoa ngữ thập niên 1990.[7]

Ngày 6 tháng 4 năm 2003, Tứ đại thiên vương Hồng Kông hát ca khúc "Tình năm đó" trên một sân khấu trao giải để tưởng nhớ Trương Quốc Vinh.[86] Dù đã qua đời được nhiều năm nhưng hằng năm, vào ngày mất và ngày sinh nhật của Trương Quốc Vinh, giới giải trí Hồng Kông, người hâm mộ, đồng nghiệp thân thiết vẫn luôn dành niềm thương nhớ đến anh.[87] Cứ đến ngày 1 tháng 4, người hâm mộ Trương Quốc Vinh đều tề tựu trước khách sạn Mandarin Oriental khu Trung Hoàn, Hồng Kông để đặt vòng hoa tưởng nhớ.[88] Năm 2019, tưởng niệm 16 năm ngày mất Trương Quốc Vinh, một nhóm người hâm mộ Nhật Bản đã gấp 1.339 con hạc giấy, trong đó, con số "339" là biển số xe của nam nghệ sĩ lúc sinh thời.[89] Theo On, sau khi Trương Quốc Vinh qua đời, người yêu anh là Đường Hạc Đức không hẹn hò ai. Mỗi dịp Giáng sinh, sinh nhật, ngày giỗ Trương Quốc Vinh, anh này thường đăng trên trang cá nhân ảnh bên bạn đời quá cố, thể hiện sự nhớ nhung, quyến luyến.[90]

Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

  • I Like Dreamin' (1977)
  • Day Dreamin' (1977)
  • Tình nhân tiễn (1979)
  • Gió tiếp tục thổi (1983)
  • Mối tình si (1983)
  • Leslie Trương Quốc Vinh (Monica) (1984)
  • Lựa chọn tốt nhất cho mùa hè – Tất cả phụ thuộc vào bạn (1985)
  • Chung tình vì người (1985)
  • Stand Up (1986)
  • Trương Quốc Vinh (Tình năm đó) (1986)
  • Ái mộ (1986)
  • Allure Me (1986)
  • Summer Romance (1987)
  • Virgin Snow (1987)
  • Hot Summer (1987)
  • Cự tuyệt chơi đùa (1989)
  • Leslie Trương Quốc Vinh (Mặt bên) (1989)
  • Tâm trạng hóng gió (1989)
  • Salute (1989)
  • Final Encouter (1989)
  • Dreaming Tân khúc+Tinh tuyển (1990)
  • Sủng ái (1995)
  • Hồng (1996)
  • Những năm qua (1998)
  • Printemps (1998)
  • Cùng em đếm ngược (1999)
  • Đại nhiệt (2000)
  • Untitled (2000)
  • Forever Tân khúc+Tinh tuyển (2001)
  • Crossover (2002)
  • Mọi thứ theo gió (2003)
  • Chung tình Trương Quốc Vinh (2004)

Danh sách phim[sửa | sửa mã nguồn]

  • Dị độ không gian (2002)
  • Yên phi yên diệt (2000)
  • Duyên tình Okinawa (2000)
  • Súng thần (2000)
  • Lưu tinh ngữ (1999)
  • Tình nguyệt đồng thoại (1999)
  • Tình mong đợi (1998)
  • Hồng sắc luyến nhân (1998)
  • Cửu tinh báo hỷ (1998)
  • Xuân quang xạ tiết (1997)
  • Gia hữu hỷ sự 1997 (1997)
  • Đại tam nguyên (1996)
  • Kim chi ngọc diệp 2 (1996)
  • Bến Thượng Hải (1996)
  • Sắc tình nam nữ (1996)
  • Trai-Gái: Giới tính trong phim Trung Quốc (1996)
  • Phong nguyệt (1996)
  • Mãn Hán toàn tịch (1995)
  • Dạ bác ca thanh (1995)
  • Cuộc sống tươi đẹp (1994)
  • Kim chi ngọc diệp (1994)
  • Over the Rainbow Under the Skirt (1994)
  • Cẩm tú tiền trình (1994)
  • Đông Tà, Tây Độc (1994)
  • Bạch phát ma nữ 2 (1993)
  • Bạch phát ma nữ (1993)
  • Hoa điền hỷ sự (1993)
  • Đông Thành, Tây Tựu (1993)
  • Bá vương biệt Cơ (1993)
  • Hoa điền hỷ sự (1992)
  • Nam Kong Legend: Anti-Punk Squad (1992)
  • Hào môn dạ yến (1991)
  • A Phi chính truyện (1991)
  • Tung hoành tứ hải (1991)
  • Thiện nữ u hồn II (1990)
  • Aces Go Places V: The Terracotta Hit (1989)
  • Sát chi luyến (1988)
  • Thiện nữ u hồn (1987)
  • Anh hùng bản sắc II (1987)
  • Yên chi khâu (1987)
  • Anh hùng bản sắc (1986)
  • Last Song in Paris (1985)
  • Vì em chung tình (1985)
  • Intellectual Trio (1984)
  • Duyên phận (1984)
  • Tam văn trị (1984)
  • Giáng Sinh vui vẻ (1984)
  • First time (1983)
  • Dương Quá và Tiểu Long Nữ (1983)
  • Cổ thủ (1983)
  • Liệt hỏa thanh xuân (1982)
  • Nịnh mông khả nhạc (1982)
  • Crazy Romance (1982)
  • Energetic 21 (1982)
  • Thất nghiệp sinh (1981)
  • Hái thải (1980)
  • Dog eats Dog (1978)
  • Hồng lâu xuân thượng xuân (1978)

Giải thưởng và đề cử chính[sửa | sửa mã nguồn]

Giải Top 10 Ca khúc vàng Trung Quốc của Đài Truyền hình Hồng Kông[sửa | sửa mã nguồn]

NămHạng mụcĐối tượng đề cửKết quảNguồn
1984 Top 10 Ca khúc vàng "Monica" Đoạt giải [23]
1985 Top 10 Ca khúc vàng "Ngọn gió tự do" Đoạt giải [91]
1986 Top 10 Ca khúc vàng "Tình năm đó" Đoạt giải [92]
1987 Top 10 Ca khúc vàng "Không có giấc ngủ" Đoạt giải [93]
CD hay nhất Summer Romance Đoạt giải
Giải doanh số (Album bán chạy nhất năm) Summer Romance Đoạt giải
1988 Top 10 Ca khúc vàng "Im lặng là vàng" Đoạt giải [93]
Top 10 Ca khúc vàng "Không cần quá nhiều" Đoạt giải
Giải IFPI Trương Quốc Vinh Đoạt giải
1999 Top 10 Ca khúc vàng "Tay trái phải" Đoạt giải [93]
2000 Giải Kim vàng Trương Quốc Vinh Đoạt giải [23]
Top 10 Ca khúc vàng "Đại nhiệt" Đoạt giải [93]
2002 Giải Silver Jubilee Trương Quốc Vinh Đoạt giải

Giải thưởng Top 10 Kình ca kim khúc[sửa | sửa mã nguồn]

NămHạng mụcĐối tượng đề cửKết quảNguồn
1983 Top 10 Ca khúc vàng "Gió tiếp tục thổi" Đề cử
1984 "Monica" Đoạt giải
1985 "Ngọn gió tự do" Đoạt giải [94]
1986 "Tình năm đó" Đoạt giải [95]
"Có ai cảm thông" Đoạt giải
Giải Kim khúc kim Đoạt giải
1987 Top 10 Ca khúc vàng "Không có giấc ngủ" Đoạt giải [96]
Giải Kim khúc kim Đoạt giải
1988 Top 10 Ca khúc vàng "Im lặng là vàng" Đoạt giải [97]
"Theo sát" Đoạt giải
Nam ca sĩ được hoan nghênh nhất Trương Quốc Vinh Đoạt giải
1989 Top 10 Ca khúc vàng "Bắt đầu từ Không" Đoạt giải [98]
Nam ca sĩ được hoan nghênh nhất Trương Quốc Vinh Đoạt giải
1999 Giải Vinh dự Đoạt giải [99]
2000 Giải Four Channel (Album hay nhất năm) Untitled Đoạt giải [100]
Giải Vinh dự Trương Quốc Vinh Đoạt giải

Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông[sửa | sửa mã nguồn]

NămHạng mụcPhim Kết quảNguồn
1983 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Liệt hỏa thanh xuân Đề cử [28]
1988 Anh hùng bản sắc 2 Đề cử [35]
Ca khúc trong phim hay nhất Thiện nữ u hồn Đề cử
1989 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Yên chi khâu Đề cử [36]
1991 A Phi chính truyện Đoạt giải [40]
1994 Ca khúc trong phim hay nhất Bạch phát ma nữ Đề cử [101]
1995 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Kim chi ngọc diệp Đề cử [49]
Ca khúc trong phim hay nhất Đoạt giải
1996 Dạ bác ca thanh Đề cử [102]
1997 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Sắc tình nam nữ Đề cử [50]
Ca khúc trong phim hay nhất Kim chi ngọc diệp II Đề cử
1998 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Xuân quang xạ tiết Đề cử [53]
2003 Dị độ không gian Đề cử [103]

Giải Kim Mã[sửa | sửa mã nguồn]

NămHạng mụcPhim Kết quảNguồn
1991 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất A Phi chính truyện Đề cử [104]
1993 Ca khúc trong phim hay nhất Bạch phát ma nữ Đoạt giải [105]
1994 Kim chi ngọc diệp Đề cử [106]
1995 Dạ bác ca thanh Đề cử [107]
1996 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Phong nguyệt Đề cử [108]
Ca khúc trong phim hay nhất Đề cử
Kim chi ngọc diệp II Đề cử
1997 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Xuân quang xạ tiết Đề cử [109]
2000 Súng thần Đề cử [110]
2002 Dị độ không gian Đề cử [111]

Giải thưởng điện ảnh khác[sửa | sửa mã nguồn]

NămGiải thưởng Hạng mụcPhim Kết quảNguồn
1991 Liên hoan phim châu Á–Thái Bình Dương Nam diễn viên chính xuất sắc nhất A Phi chính truyện Đề cử [112]
1993 Liên hoan phim Cannes Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Bá vương biệt Cơ Đề cử [61]
1994 Hiệp hội Phê bình phim Hồng Kông Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Đông Tà, Tây Độc Đoạt giải [113]
Hiệp hội Phê bình phim Nhật Bản Bá vương biệt Cơ Đoạt giải [114]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Điện ảnh Hồng Kông

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b “简介張國榮” [Giới thiệu về Trương Quốc Vinh]. Red Mission (bằng tiếng Trung). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2016.
  2. ^ Stokes, Lisa Odham (2009). Peter Ho-Sun Chan's He's a Woman, She's a Man [Kim chi ngọc diệp của Trần Khả Tân] (bằng tiếng Anh). Nhà xuất bản Đại học Hồng Kông. tr. 126. ISBN 9789622099708.
  3. ^ a b c Trạch Dương (1 tháng 4 năm 2020). “Trương Quốc Vinh qua đời và sự thụt lùi của giới giải trí Hong Kong”. Zing News. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  4. ^ a b Xu Ming (28 tháng 3 năm 2013). “The cruelest decade” [Thập kỷ tàn khốc nhất]. Global Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  5. ^ a b c Nguyễn Hương (5 tháng 4 năm 2021). “Cuộc gọi cuối của Trương Quốc Vinh trước khi nhảy lầu”. Dân Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2021.
  6. ^ “Leslie Cheung, 46, Pop Singer And Film Actor in Gay Roles” [Trương Quốc Vinh, 46 tuổi, ca sĩ nhạc pop kiêm diễn viên điện ảnh trong các vai diễn đồng tính nam]. The New York Times (bằng tiếng Anh). 2 tháng 4 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2021.
  7. ^ a b c Thục Nghi (1 tháng 4 năm 2018). “Trương Quốc Vinh đóng vai đồng tính nhiều nhất màn ảnh Hoa ngữ”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  8. ^ a b c d Nghinh Xuân (27 tháng 3 năm 2021). “Trương Quốc Vinh: Duyên phận mỏng manh với cha mẹ”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  9. ^ A (9 tháng 9 năm 2020). “Universal Music phát hành lại ca khúc hit của Trương Quốc Vinh nhân sinh nhật 64 tuổi”. VTV. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  10. ^ “Leslie Cheung to grace HK Avenue of Stars” [Trương Quốc Vinh được vinh danh trên Đại lộ Ngôi sao Hồng Kông]. China Daily (bằng tiếng Anh). 3 tháng 4 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2021.
  11. ^ Vương Tuyền (1 tháng 4 năm 2013). “张国荣逝世十周年系列策划之揭秘哥哥家世” [Kế hoạch làm loạt phim kỷ niệm 10 năm ngày mất của Trương Quốc Vinh, tiết lộ lịch sử gia đình ca ca]. NetEase (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  12. ^ a b c d Parkes, Douglas (30 tháng 3 năm 2020). “Leslie Cheung – 7 things you didn't know about the Canto-pop icon, actor and LGBT pioneer” [Trương Quốc Vinh – 7 điều bạn chưa biết về biểu tượng Canto-pop, diễn viên và người mở đường phong trào LGBT]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  13. ^ T.L (1 tháng 4 năm 2019). “Trương Quốc Vinh: Cuộc đời buồn cô đơn của một nghệ sĩ tài năng”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  14. ^ a b c Mi Vân (1 tháng 4 năm 2021). “Trương Quốc Vinh: Ngôi sao cô đơn với mối tình đồng tính xót xa”. Dân Trí. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  15. ^ Thúy Ngọc (14 tháng 5 năm 2020). “Trương Quốc Vinh: Nỗi cô độc của ngôi sao hàng đầu Châu Á”. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  16. ^ Yung, Vanessa (12 tháng 3 năm 2013). “Hong Kong Philharmonic tribute to Leslie Cheung” [Dàn nhạc giao hưởng Hồng Kông tưởng nhớ Trương Quốc Vinh]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2021.
  17. ^ Thùy Linh (1 tháng 4 năm 2018). “Công bố những bức ảnh hiếm về cuộc đời siêu sao Trương Quốc Vinh”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  18. ^ a b c d e Mudge, James (11 tháng 4 năm 2006). “The Immortal Leslie Cheung” [Trương Quốc Vinh bất tử]. easternKicks (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2021.
  19. ^ Parkes, Douglas (31 tháng 3 năm 2021). “The rise and fall of Leslie Cheung – the King of Cantopop's story will forever bookend Hong Kong's glory days” [Sự thăng trầm của Trương Quốc Vinh – câu chuyện về Vua Cantopop sẽ mãi mãi ghi dấu ấn cho những năm tháng vinh quang ở Hồng Kông]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2021.
  20. ^ a b Mok, Laramie (12 tháng 9 năm 2018). “Happy birthday, Leslie Cheung: the Canto-pop prince's five most remarkable dancing scenes” [Chúc mừng sinh nhật, Trương Quốc Vinh: 5 màn ca vũ đáng chú ý nhất của Hoàng tử Canto-pop]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  21. ^ Thục Nghi (1 tháng 4 năm 2016). “8 "từ khóa" gắn liền sự nghiệp âm nhạc Trương Quốc Vinh”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  22. ^ a b c Mi Vân (5 tháng 4 năm 2021). “Tiết lộ về ngày cuối đời của tài tử đoản mệnh Trương Quốc Vinh”. Dân Trí. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  23. ^ a b c d e f g h i j “In memory of Leslie Cheung” [Tưởng nhớ Trương Quốc Vinh]. China Daily (bằng tiếng Anh). 31 tháng 3 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2021.
  24. ^ Mai Trân (11 tháng 4 năm 2018). “Thuở còn là vai phụ mờ nhạt không ai biết của 4 ông hoàng điện ảnh Hong Kong”. 2sao. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2021.
  25. ^ Ly Ly (28 tháng 3 năm 2015). “Trương Quốc Vinh: Huyền thoại về một loài chim bay mãi”. Zing News. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  26. ^ Summi (1 tháng 4 năm 2020). “Trương Quốc Vinh - Nam nghệ sĩ huyền thoại của Hong Kong thập niên 80”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  27. ^ Thục Nghi. “10 vai diễn kinh điển của Trương Quốc Vinh trên màn bạc”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  28. ^ a b “第2屆香港電影金像獎提名及得獎名單” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 2]. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  29. ^ a b c d e f g Hải Lan (30 tháng 3 năm 2013). “Trương Quốc Vinh - huyền thoại bất tử Hong Kong”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  30. ^ Thục Nghi (31 tháng 3 năm 2018). “Trương Quốc Vinh và 10 người đàn ông trong cuộc đời”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  31. ^ Thục Nghi (15 tháng 11 năm 2017). “Trương Quốc Vinh - 'Anh hùng bản sắc' cuối cùng của Ngô Vũ Sâm”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  32. ^ Lan Anh (3 tháng 7 năm 2020). “Bản sắc anh hùng: Dấu ấn một thời đại”. Phụ Nữ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  33. ^ Cố Lục Nhã (7 tháng 7 năm 2016). “Những mỹ nhân được Trương Quốc Vinh sủng ái nhất”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  34. ^ a b c Nghinh Xuân (1 tháng 4 năm 2018). “Những mối tình huyền thoại của Trương Quốc Vinh trên màn ảnh”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  35. ^ a b “第7屆香港電影金像獎提名及得獎名單” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 7]. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  36. ^ a b “第8屆香港電影金像獎提名及得獎名單” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 8]. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  37. ^ Beaver (5 tháng 4 năm 2018). “Trước khi trở thành huyền thoại của giới giải trí, Trương Quốc Vinh đã gặp nhiều trắc trở thế này”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  38. ^ Young, Ian (28 tháng 5 năm 2013). “From Hong Kong to Canada and back: the migrants who came home from home” [Từ Hồng Kông đến Canada rồi ngược lại: những người di cư về nhà]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2021.
  39. ^ A (18 tháng 12 năm 2018). “Kỷ niệm 25 năm phim Bá Vương Biệt Cơ, lật lại cuộc phỏng vấn cũ với Trương Quốc Vinh”. VTV. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  40. ^ a b Trịnh Nghi (26 tháng 6 năm 2018). “Sau 28 năm, bộ phim 'A Phi chính truyện' ra mắt khán giả Trung Quốc”. Thế giới điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  41. ^ a b Yến Nhi. “Trương Quốc Vinh”. VietnamPlus. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  42. ^ Bá Vũ (1 tháng 4 năm 2018). “Trình Điệp Y - Vai diễn để đời của Trương Quốc Vinh”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  43. ^ Thế Minh (29 tháng 5 năm 2005). “Bá Vương Biệt Cơ: phim TQ được yêu thích nhất mọi thời đại”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  44. ^ a b Hoàng Cương (1 tháng 4 năm 2021). “Hoài niệm Trương Quốc Vinh: Sau 18 năm, "ca ca" vẫn chưa hề rời đi”. L'Officiel Vietnam. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  45. ^ Nghinh Xuân (1 tháng 4 năm 2020). “'Bá vương biệt Cơ': 27 năm làm khán giả thổn thức”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  46. ^ Thục Nghi (27 tháng 5 năm 2017). “Trần Khải Ca tiếc Trương Quốc Vinh không có giải ở Cannes”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2021.
  47. ^ Nhân Từ (3 tháng 4 năm 2020). “Dàn sao nam 'Đông Tà Tây Độc' sau 26 năm: tất cả đều hạnh phúc, ngoại trừ Trương Quốc Vinh”. 2sao. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  48. ^ “1994年度香港電影評論學會大獎得獎名單公佈” [Công bố người chiến thắng Giải thưởng Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông năm 1994]. Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  49. ^ a b “第14屆香港電影金像獎提名及得獎名單” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 14]. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  50. ^ a b “第16屆香港電影金像獎提名及得獎名單” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 16]. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  51. ^ Anh Trâm (21 tháng 4 năm 2013). “'Happy Together', một tình yêu đồng tính kinh điển”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  52. ^ Yip, Annaliese (14 tháng 6 năm 2020). “LGBTQ Films That Were Ahead of Their Time” [Những bộ phim LGBTQ đi trước thời đại]. Comic Book Resources (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  53. ^ a b “第17屆香港電影金像獎提名及得獎名單” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 17]. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  54. ^ Chi Chi (3 tháng 5 năm 2018). “Vai diễn cuối cùng và 'điềm báo' về cái chết của Trương Quốc Vinh”. iOne. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  55. ^ Ko, Melissa (29 tháng 3 năm 2018). “10 of Hong Kong actor Leslie Cheung's most memorable films” [10 bộ phim đáng nhớ nhất của diễn viên Hồng Kông Trương Quốc Vinh]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  56. ^ Mok, Laramie (1 tháng 4 năm 2017). “Five iconic styles of Leslie Cheung” [Năm phong cách biểu tượng của Trương Quốc Vinh]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  57. ^ a b Thảo (16 tháng 10 năm 2020). “Album "Revisit" của Trương Quốc Vinh: Để lại quá khứ huy hoàng cùng những ký ức nồng nàn nhất”. Billboard Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  58. ^ Thụy Khuê (1 tháng 4 năm 2019). “Trương Quốc Vinh: Tiếng vọng từ tour diễn cuối cùng”. Phụ Nữ. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  59. ^ Thụy Phụng (1 tháng 4 năm 2019). “Trương Quốc Vinh và những giá trị thời trang không bao giờ chết”. Zing News. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  60. ^ “Leslie Cheung” [Trương Quốc Vinh]. MUBI (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  61. ^ a b Hạnh Hạnh (1 tháng 4 năm 2019). “16 năm ngày mất, nhìn lại những bộ phim kinh điển của Trương Quốc Vinh”. Zing News. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  62. ^ Thúy Ngọc (5 tháng 4 năm 2021). “Cuộc gọi cuối cùng của Trương Quốc Vinh trước khi tự sát”. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  63. ^ Lệ Chi (25 tháng 6 năm 2009). “Trương Quốc Vinh - Tài tử được thương nhớ nhất Hồng Kông”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  64. ^ a b c d e Nghinh Xuân (25 tháng 3 năm 2016). “Ba bóng hồng và người đàn ông trong đời Trương Quốc Vinh”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  65. ^ Corliss, Richard (7 tháng 5 năm 2001). “Forever Leslie” [Mãi mãi Trương Quốc Vinh]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2021.
  66. ^ Viên An (1 tháng 3 năm 2017). “Bí mật chuyện tình của "Lý Mạc Sầu" và Trương Quốc Vinh”. Dân Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2021.
  67. ^ Hoàng Dương (1 tháng 4 năm 2018). “Có một người phụ nữ đã có thể cứu sống Trương Quốc Vinh”. Phụ Nữ. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  68. ^ Hữu Tài (1 tháng 4 năm 2021). “Trương Quốc Vinh – Đường Hạc Đức: 18 năm, sống mãi một mối tình”. Pháp luật Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  69. ^ a b c Tuấn Vĩ (12 tháng 4 năm 2018). “15 năm sau khi tự vẫn, Trương Quốc Vinh trở thành 'biểu tượng gay của châu Á'”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  70. ^ a b Di Hy (10 tháng 4 năm 2021). “Lời nhắn cuối của Trương Quốc Vinh, Trần Bảo Liên trước khi tự sát”. Zing News. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  71. ^ a b “Hong Kong Top Star Cheung Commits Suicide” [Siêu sao Hồng Kông họ Trương chọn con đường tự sát]. China Internet Information Center (bằng tiếng Anh). 2 tháng 4 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  72. ^ a b H. Nhu (5 tháng 4 năm 2003). “Cuộc đời bắt chước phim ảnh”. Người Lao Động. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  73. ^ “前经理人赶来赴约 不料目睹张国荣从楼上坠下” [Người quản lý cũ vội vàng đến cuộc hẹn và bất ngờ nhìn thấy Trương Quốc Vinh ngã từ trên lầu xuống]. Sina Weibo (bằng tiếng Trung). 2 tháng 4 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  74. ^ Mi Vân (25 tháng 12 năm 2019). “Đường Hạc Đức thương nhớ người tình đồng tính Trương Quốc Vinh mỗi dịp Giáng sinh”. Dân Trí. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  75. ^ “Leslie Cheung's last phone call” [Cuộc gọi cuối của Trương Quốc Vinh]. AsiaOne (bằng tiếng Anh). 1 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  76. ^ Như Anh (1 tháng 4 năm 2021). “Bạn đời, đồng nghiệp tưởng nhớ Trương Quốc Vinh”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  77. ^ Việt Lâm (1 tháng 4 năm 2013). “10 năm ngày tự vẫn của Trương Quốc Vinh: Một "Ca Ca" huyền thoại của châu Á”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  78. ^ T. Minh (19 tháng 10 năm 2005). “Các ngôi sao quá cố Hong Kong lên tem”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  79. ^ Anh Anh (2 tháng 4 năm 2021). “Khán giả vẫn xếp hàng dài tưởng nhớ Trương Quốc Vinh sau 18 năm”. 2sao. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  80. ^ Hernandez, Eugence (23 tháng 2 năm 1998). “Salles' "Central Station" Awarded Top Prize in Berlin; Other Awards Also Announced” ["Central Station" của Salles đoạt trao Giải thưởng cao nhất ở Berlin; Các giải thưởng khác cũng được công bố]. IndieWire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  81. ^ “In memoriam: Seijun Suzuki, Director” [Hoài niệm: Seijun Suzuki, Đạo diễn]. Liên hoan phim quốc tế Tokyo (bằng tiếng Anh). 22 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  82. ^ “Ảnh cưới hiếm của Trương Quốc Vinh”. 2sao. 27 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  83. ^ Thục Nghi (28 tháng 3 năm 2020). “Trương Quốc Vinh và Vương Gia Vệ - Những năm tháng từng đeo đuổi”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  84. ^ Di Hy (12 tháng 9 năm 2020). “Vì sao Lưu Đức Hoa không có tầm ảnh hưởng như Trương Quốc Vinh?”. Zing News. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  85. ^ Như Anh (29 tháng 3 năm 2019). “Fan Nhật Bản tới Hong Kong tưởng nhớ Trương Quốc Vinh”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  86. ^ Hương Ly (1 tháng 4 năm 2019). “'Tứ đại thiên vương' hát tưởng nhớ Trương Quốc Vinh sau cú sốc tự tử”. Zing News. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  87. ^ “Giới giải trí Hong Kong... tưởng nhớ Trương Quốc Vinh”. Công Luận. 3 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  88. ^ Trịnh Nghi (1 tháng 4 năm 2018). “Giới hâm mộ tưởng niệm 15 năm ngày mất Trương Quốc Vinh”. Thế giới điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  89. ^ Thục Nghi (1 tháng 4 năm 2019). “16 năm ngày mất Trương Quốc Vinh, fan Nhật gấp 1.339 con hạc giấy”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  90. ^ Hiểu Nhân (12 tháng 9 năm 2020). “Bạn đời đồng giới chúc sinh nhật Trương Quốc Vinh”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  91. ^ “985年度十大中文金曲(第八届颁奖礼)” [Top 10 Ca khúc vàng Trung Quốc năm 1985 (Lễ trao giải lần thứ 8)]. Sina Weibo (bằng tiếng Trung). 19 tháng 1 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  92. ^ Dương Hi (2016). 香港詞人系列:黃霑 [Hương Cảng từ nhân hệ liệt: Hoàng Triêm] (bằng tiếng Trung). Công ty hữu hạn Trung Hoa thư cục Hương Cảng. tr. 103. ISBN 9789888420278.
  93. ^ a b c d “张国荣去世五周年 哥哥的十个主题--歌” [10 chủ đề về ca ca Trương Quốc Vinh nhân kỷ niệm 5 năm ngày mất - Bài hát]. Sina Weibo (bằng tiếng Trung). 1 tháng 4 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  94. ^ “歷屆得獎名單 (1985年)” [Danh sách người chiến thắng trong quá khứ (1985)]. Kình ca kim khúc (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  95. ^ “歷屆得獎名單 (1986年)” [Danh sách người chiến thắng trong quá khứ (1986)]. Kình ca kim khúc (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  96. ^ “歷屆得獎名單 (1987年)” [Danh sách người chiến thắng trong quá khứ (1987)]. Kình ca kim khúc (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  97. ^ “歷屆得獎名單 (1988年)” [Danh sách người chiến thắng trong quá khứ (1988)]. Kình ca kim khúc (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  98. ^ “歷屆得獎名單 (1989年)” [Danh sách người chiến thắng trong quá khứ (1989)]. Kình ca kim khúc (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  99. ^ “歷屆得獎名單 (1999年)” [Danh sách người chiến thắng trong quá khứ (1999)]. Kình ca kim khúc (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  100. ^ “歷屆得獎名單 (2000年)” [Danh sách người chiến thắng trong quá khứ (2000)]. Kình ca kim khúc (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  101. ^ “第13屆香港電影金像獎提名及得獎名單” [Danh sách giải thưởng và đề cử tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 13]. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  102. ^ “第15屆香港電影金像獎提名及得獎名單” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 15]. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  103. ^ “第22屆香港電影金像獎提名及得獎名單” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 22]. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  104. ^ “Nominees & Winners (28th)” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải Kim Mã lần thứ 18]. Giải Kim Mã (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  105. ^ “Nominees & Winners (30th)” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải Kim Mã lần thứ 30]. Giải Kim Mã (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  106. ^ “Nominees & Winners (31th)” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải Kim Mã lần thứ 31]. Giải Kim Mã (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  107. ^ “Nominees & Winners (32nd)” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải Kim Mã lần thứ 32]. Giải Kim Mã (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  108. ^ “Nominees & Winners (33rd)” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải Kim Mã lần thứ 33]. Giải Kim Mã (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  109. ^ “Nominees & Winners (34th)” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải Kim Mã lần thứ 34]. Giải Kim Mã (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  110. ^ “Nominees & Winners (37th)” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải Kim Mã lần thứ 37]. Giải Kim Mã (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  111. ^ “Nominees & Winners (39th)” [Danh sách đề cử và giải thưởng tại Giải Kim Mã lần thứ 39]. Giải Kim Mã (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  112. ^ “Asia-Pacific Film Festival” [Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương]. Internet Movie Database (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  113. ^ “The 2nd Kong Kong Film Critics Society Awards” [Giải thưởng Hiệp hội Phê bình phim Hồng Kông lần thứ 2]. Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  114. ^ Chen, Vivian (1 tháng 4 năm 2018). “Leslie Cheung remembered in 16 rare black-and-white photos from Post's archive” [Tưởng nhớ Trương Quốc Vinh qua 16 bức ảnh đen trắng từ kho lưu trữ của Post]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trương Quốc Vinh.
  • Trương Quốc Vinh trên IMDb
  • Trương Quốc Vinh tại Hong Kong Movie Database
  • Trương Quốc Vinh tại LoveHKFilm.com
  • Trang hâm mộ Trương Quốc Vinh

Charlene Choi

蔡卓妍

Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023

Choi tại Instantfunk Thượng Hải cửa hàng popup ra mắt, ngày 6 tháng 11 năm 2022

Sinh ra

Choi Tsoek-jin [1]


Ngày 22 tháng 11 năm 1982 (Tuổi & NBSP; 40) [2] Vancouver, British Columbia, Canada (age 40)[2]

Vancouver, British Columbia, Canada

Quốc tịch

  • Trung Quốc [Lưu ý 1]

Quyền công dân

  • Hồng Kông [Lưu ý 2]

Nghề nghiệp

  • Ca sĩ
  • nữ diễn viên

Years active2000 hiện tại
Vợ chồng

Ronald Cheng

(M. & NBSP; 2006; Div. & NBSP; 2010)

Giải thưởngGiải thưởng Golden Bauhinia - Nữ diễn viên xuất sắc nhất2007 chỉ đơn giản là diễn viênBest Actress
2007 Simply Actors
Sự nghiệp âm nhạc
Nguồn gốcHồng Kông, Trung Quốc
Thể loại

  • Cantopop
  • Mandopop

Instrument(s)Giọng hát
NhãnNhóm giải trí Hoàng đế
Tên tiếng Trung
người Trung Quốc蔡卓妍
Phiên âm
Tiêu chuẩn tiếng Quan Thoại
Hanyu pinyinCài Zhuóyán
Yue: Quảng Đông
Yale La Mã hóaChoi Cheukyìn
JyutpingCOI3 COEK3JIN4
Hồng Kông RomanisationChoi Cheuk-Yin

Charlene Choi Tsoek-jin [1] (Trung Quốc: 蔡卓妍; sinh ngày 22 tháng 11 năm 1982 [3]) là một nữ diễn viên và ca sĩ người Canada ở Hồng Kông.Cô là thành viên của Cantopop Group Twins, cùng với Gillian Chung. [4][1] (Chinese: 蔡卓妍; born 22 November 1982[3]) is a Hong Kong Canadian actress and singer. She is a member of Cantopop group Twins, along with Gillian Chung.[4]

Cuộc sống sớm [chỉnh sửa][edit]

Choi sinh ra ở Vancouver, British Columbia, Canada.Cô chuyển cùng gia đình đến Hồng Kông vài năm sau đó.Cô được giáo dục tại trường trung học Marymount và Trường Rosaryhill (trường trung học).Cô ấy thông thạo tiếng Quảng Đông, tiếng Anh và tiếng phổ thông. [2]

Sau khi tốt nghiệp trường Rosaryhill, nơi nhiều ngôi sao nhạc pop khác đã tham dự, cô bắt đầu làm việc toàn thời gian như một người mẫu ở Hồng Kông.Cô được Hoàng đế Entertainment Group (EEG) trinh sát trinh sát, và sau đó được liên kết với Gillian Chung để thành lập Cantopop Group Twins.

Diễn xuất sự nghiệp [Chỉnh sửa][edit]

Những năm đầu [chỉnh sửa][edit]

Bên cạnh sự nghiệp âm nhạc của mình, Choi đã trở thành một nữ diễn viên thành công trong ngành công nghiệp điện ảnh Hồng Kông, được đóng cùng các diễn viên như Andy Lau, Eason Chan, Jay Chou, Mike He, Wu Chun và Nicholas TSE.Cô đã viết một bài báo mô tả sự nghiệp diễn xuất của mình:

Trước đó, tôi đã chia sẻ với mọi người một số kinh nghiệm diễn xuất của tôi.Lần này, tôi muốn nói về phim ảnh.Là một nghệ sĩ, bất cứ khi nào tôi làm việc, tôi phải thể hiện khía cạnh tốt nhất của mình và cho màn trình diễn tốt nhất của mình.Tôi phải thể hiện mặt mạnh nhất của tôi và do đó, tôi thường ở "chế độ chiến đấu".Khi miễn phí, tôi thích xem phim có nhịp độ chậm.Tôi không thể chịu được phim với quá nhiều phấn khích.Tôi là kiểu người có thể dễ dàng bị hút vào thế giới của bộ phim.Kiểu phim có nhịp độ nhanh cuối cùng sẽ khiến tôi căng thẳng và lo lắng rất hài hước, lãng mạn hoặc phim ảnh tập trung vào các vấn đề của nhân loại đều phù hợp với tôi hơn. "

Buổi biểu diễn đầu tiên của Choi là một vai chính trong bộ phim truyền hình năm 2000 Yea Y2K.Sau đó, Choi đã ra mắt bộ phim đầu tiên vào năm 2001 trong Funeral March (được quay trước khi Twins 'ra mắt), đã thu hút những đánh giá rave từ các nhà phê bình và mang lại cho cô một đề cử biểu diễn mới xuất sắc nhất tại Giải thưởng phim Hồng Kông lần thứ 21.Sự phá vỡ diễn xuất lớn tiếp theo của Choi là vào năm 2003 với sự miêu tả một cách nghiêm túc và không giả vờ của cô về một cô gái trẻ chiến đấu với tất cả các tỷ lệ cược với hy vọng trở thành một ca sĩ trong Diva-ah hey.

Thành công đột phá [Chỉnh sửa][edit]

Kể từ đó, Choi đã đưa Jim Chim làm cố vấn, và miêu tả một ngôi sao khiêu dâm tốt bụng và hài hước trong bộ phim hài Simptor Actors (2007).Vai diễn đột phá của cô trong Nhật ký kinh dị tâm lý của anh em Pang (2006) đã giành được nhiều đề cử giải thưởng phim và cô đã nhận được giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim tuyệt vời quốc tế Bucheon lần thứ 11 (Giải thưởng phim Bifan Hàn Quốc).

Diễn xuất của Choi một lần nữa được xác định hợp lệ bởi rất nhiều nhà phê bình phim với vai diễn Dani Dan trong các diễn viên đơn giản.Chỉ vài tháng sau, cô đã giành giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất và Giải thưởng Nữ diễn viên yêu thích tại Giải thưởng Golden Bauhinia năm 2007 cho vai diễn trong Simply Actors.Choi cũng đóng vai trò hàng đầu cùng với ca sĩ người Đài Loan Jay Chou trong bộ phim diễn viên hài năm 2008 Kung Fu Dunk.

Choi đóng chung với Wu Chun và Hu Ge trong những người yêu thích bướm, dựa trên truyền thuyết cùng tên của Trung Quốc, được phát hành vào ngày 9 tháng 10 năm 2008. Trong suốt quá trình quay phim, những tin đồn về một mối tình lãng mạn giữa Choi và Wu Chun đã phát triển.Mặc dù họ đã phủ nhận những tin đồn như vậy, WU tuyên bố rằng cặp đôi đã đạt được thỏa thuận với đạo diễn Jingle Ma một lần nữa trong tương lai.

Vào tháng 12 năm 2008, cô bắt đầu quay bộ phim truyền hình Đài Loan đầu tiên của mình, kêu gọi tình yêu, được sản xuất bởi Angie Chai, đóng chung với Mike He.Loạt phim được phát sóng lần đầu tiên vào tháng 5 năm 2010.

Cuối cùng vào tháng 12 năm 2009 Sau hơn một năm sau khi sản xuất, phản ứng tích cực tại Liên hoan phim quốc tế Thượng Hải, các Chiến binh Storm đã được phát hành với Choi đảm nhận vai chính nữ chính là giấc mơ thứ hai và đóng vai chính cùng với Aaron Kwok, Ekin Cheng, Simon Yamvà Nicholas tse.Mặc dù nó chỉ được phát hành vào ngày 10 tháng 12, các Chiến binh Storm đứng thứ năm trong phòng vé tiếng Trung Quốc Hồng Kông của năm.

More Recognitions[edit]

In 2010, after having concentrated heavily on music in the previous year, Choi started taking on more acting projects. Her first film for that year was Beauty on Duty, which she co-starred with Sandra Ng. Following that, Choi appeared in Triple Tap with Daniel Wu and Louis Koo. Choi's next film, The Jade and the Pearl, saw her co-starring with Raymond Lam and her close friends Joey Yung and Wong Cho-lam, as well as a collaboration between Choi and Lam in singing a duet theme song. Choi concluded work on God of Fortune's Inn with Nicholas Tse and Nick Cheung. She again co-starred with Nicholas Tse in Mainland Chinese television series Sword Heroes' Fate, which was aired in 2011.

New Challenges[edit]

Staring as Chan in Detective vs Sleuths, the latest film from director Wai Ka Fai, co-founder of Milkyway Image. As per the director's comment during interviews, Choi took the risk by performing many of the stunts herself while shooting for Detective vs Sleuths. It is also a notable effort because the some scenes on the shipyard were dangerous with rusts and sharp edges.

Musical Career[edit]

Solo music released with Twins[edit]

Choi's first solo song, Diva, Ah Hey!, was released in Twins' 2003 album Touch of Love. The song received a nomination for Best Song at the 23rd Hong Kong Film Awards and won a place in the Top 10 Songs at the Jade Solid Gold Songs Awards Ceremony. Choi's second solo song, Watching Movie Alone, was released in Twins' 2006 Mandarin album Around the World with 80 Dollars. Choi's third solo song, You are Not a Good Lover, was released in Twins' 2006 Cantonese album Ho Hoo Tan. This was Choi's first recorded personal composition and Twins' recorded version earned the place of Hit Song at the Metro Showbiz Hit Awards and one of the Top 10 Songs at the Jade Solid Gold Songs Awards Ceremony.

Choi's remaining two solo songs, Little Sister and 60 Percent, were released before the Edison Chen photo scandal in their 2008 Mandarin album Tong Hua Yan Yu. Both solo songs were extremely personal, Little Sister, in particular, recounts Choi's relationship with her mother throughout the years despite her parents' divorce at a young age and won Choi several music awards at the Metro Showbiz Hit Awards and TVB8 Music Awards.

Choi's first solo single was released in 2008 with the award-winning Make a Wish, which sold 5000 copies within a span of 30 minutes with all proceeds going to the Make-A-Wish Foundation. Meanwhile, her two hit songs, Little Sister and Make a Wish ranked first in music charts and remained in the top 10 for four music charts over 11 weeks. With Twins placed on hiatus, Choi went on to be awarded with a variety of solo singer awards in 2008: Favorite Idol and Most Voted Singer at the Metro Showbiz Hit Awards, Most Popular Female Singer at the Vanguard Music Awards and Most Popular Hong Kong Female Artist at the Sprite Music Awards.

Music Career as a Solo Female Singer[edit]

Top 10 diễn viên khiêu dâm châu á tốt nhất năm 2023

Towards the end of 2008, Choi further expanded her career, entering new fields of the entertainment industry. As an entertainer, not only is she an actress and singer, but she is now a theater star. In the musical, Knight Star, she stars as the female lead Rose. Acting as her lover, she has finally reunited with Jimmy Lin after seven years. Lin first collaborated with Choi in her first series The Monkey King: Quest for the Sutra when she first entered the industry. Other stars in the musical include Julian Cheung, and Alice Liu. The musical served as a promotional event for the Chivas company to expand in China with their "Live with Chivalry" campaign.

Choi's first musical collaboration as a solo singer with another artist was the duet Little Dimples, released in late September 2008, which she performed with JJ Lin. The song received six awards in the remaining three months of 2008.

Choi released her debut solo album Two Without One on 9 April 2009. In less than one week, the album sold 10,000 copies in Hong Kong and has been certified "Gold" in Hong Kong. In less than a month, the album sold a total of 30,000 copies in Hong Kong and was certified "Platinum". Due to high sales and demand, a second version of the album is slated to be released on 6 May as a limited edition with 5,000 copies available.

Following the success of Two Without One, Choi released her next EP, titled Another Me, on 15 October 2009. Consisting of five tracks and three music videos, the overall theme of the EP is an evolving process as an individual. The release of Another Me marked new territory for Choi with a black-and-white cover and a largescale photo exhibition open to the public. As with Two Without One, Another Me was also certified "Platinum", selling nearly 60,000 copies in Hong Kong, in addition to high sales in Asia and overseas. Choi's success as a solo female singer in 2009 was best displayed at the 2009 IFPI HK Top Sales Music Awards, where she was awarded "Top 10 Best Selling Hong Kong Singers of 2009". In addition, Two Without One and Another Me were each awarded "Top 10 Best Selling Cantonese Albums of 2009."

Sau thành công của cô vào năm 2009 với tư cách là một ca sĩ solo, Choi đã phát hành album Mandarin đầu tay của mình với tư cách là SA vào năm 2010. Với hơn 1 đô la Hồng Kông & NBSP; triệu đã chi cho việc sản xuất album, khi SA được phát hành trên khắp Trung Quốc vào ngày 15 tháng 6.Do đó, Choi đã phát động chuyến lưu diễn quảng cáo trên toàn quốc của mình với vô số buổi hòa nhạc nhỏ, các buổi ký chữ ký, biểu diễn, các chương trình truyền hình được ghi lại, các cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh quốc gia và các chương trình trò chuyện.

Choi đã phát hành album Quảng Đông thứ ba của mình làm đẹp vào ngày 15 tháng 10 năm 2010.

Choi đã tái hợp với Gillian và phát hành một bài hát mới có tựa đề "Nữ tính" để kỷ niệm 20 năm của Twin.Video âm nhạc được phát hành vào ngày 18 tháng 5 năm 2021, với bài hát của Twin bao gồm "Strawberry Apple Orange", "Summer Frenzy", "Cảm ơn bạn rất nhiều" và "Tình yêu lớn hơn bầu trời".Bị ảnh hưởng bởi chính sách đại dịch và kiểm dịch, một buổi hòa nhạc trực tuyến "TME Live Super Super Twins 20 Love You Aestemony" đã được tổ chức vào tháng đó, phát sóng trực tiếp với Tencent's TME và Joox.

Sau đó cùng năm, Choi và Gillian tiếp tục thu âm bài hát chủ đề cho bộ phim "Sunny Sisters" và phát hành một bài hát mới "Nice To Meet You".

Trở lại chương trình thực tế Trung Quốc sống sót [Chỉnh sửa][edit]

Charlene đã đăng ký tham gia chương trình thực tế sinh tồn trở lại, người làm việc với Sóng mùa 3 với người bạn cùng nhóm lâu năm của cô, Gillian Chung.Họ đã cạnh tranh với một đội hình mạnh mẽ với tổng số 28 nữ nghệ sĩ với tài năng đa dạng.Người hâm mộ và phương tiện truyền thông đã rất hào hứng cho bộ đôi Cantopop sẽ được biểu diễn cùng nhau một lần nữa.Vào ngày 5 tháng 8 năm 2022, Charlene Choi đã ra mắt ở vị trí thứ 7 cho mùa thứ ba của chị em tạo ra những làn sóng được công chiếu vào ngày 20 tháng 5 năm 2022 trên Mango TV.

Cuộc sống cá nhân [chỉnh sửa][edit]

Charlene Choi và Ronald Cheng biết nhau thông qua bộ phim "Sự theo đuổi ngày 15 tháng 8", các vụ bê bối được truyền bá rằng họ đang hẹn hò trong bộ phim này.Vào đầu năm 2010, một tin tức đã nổ ra trên internet rằng họ đã kết hôn.Vào ngày 17 tháng 3 năm 2010, khi quảng bá cho bộ phim "The Secret Order of Beauty", cô nói rằng cô đã chia tay với Ronald Cheng một thời gian, và hai người đã bị tách ra vì hiểu biết lẫn nhau.Ở phía bên kia, Ronald Cheng cũng thừa nhận rằng anh ta đã bị tách khỏi Charlene Choi trong quá trình quảng bá cho bộ phim "The Treasure Box of Yue Guang".Vào ngày 27 tháng 3 năm 2010, "Apple Daily" tại Hồng Kông đã công bố giấy chứng nhận kết hôn rằng hai người kết hôn ở quận Vannes của Los Angeles, Hoa Kỳ vào đầu ngày 31 tháng 1 năm 2006. [5]Vào buổi tối cùng ngày, cả hai đã tham dự một cuộc họp báo và thừa nhận rằng họ đã kết hôn vào đầu năm 2006 và đã hoàn thành các thủ tục ly hôn trong vài tháng.

Sau đó, Charlene Choi và William Chan đã công khai hôn nhau sau khi hợp tác trong phim "The Secret Dòng sắc đẹp", và họ đã công khai thừa nhận mối quan hệ của họ vào ngày 10 tháng 10 năm 2010; [6] vào ngày 20 tháng 9 năm 2015, cả hai đã ban hành mộtTuyên bố về Weibo thông báo chia tay của họ [7]

Vào mùa thu năm 2017, Charlene Choi đã được đồn đại sẽ hẹn hò với Shi Hengcong, và sau đó đã xác nhận mối quan hệ mới của cô trong sự kiện này. [8]Vào năm 2019, Charlene Choi đã hoàn thành thủ tục đóng băng trứng thứ hai của mình. [9]

Philanthropy[edit][edit]

Là một nhà tài trợ cho Quỹ Make-A-Wish từ năm 2001 và Đại sứ Make A Wish Abassador năm 2008, Choi đã phát hành bản hit và giành giải thưởng 'Make A Wish', đã bán 5000 bản trong vòng 30 phút với tất cả số tiền thu đượcĐi đến nền tảng.Choi cũng đã bán quần áo từ dòng quần áo "Sal" của riêng mình cho người hâm mộ để quyên góp nhiều tiền hơn cho nền tảng.

Choi cũng đã viết một cuốn sách tự truyện về những năm tuổi thiếu niên khi còn là một đứa con của cha mẹ ly dị.Mặc dù cô vẫn gần gũi với cả cha mẹ, Choi sống với cha mình sau khi cha mẹ cô ly hôn.Tuy nhiên, sau quyết định trở thành một nữ diễn viên ca sĩ, thời gian cô ở nhà và với cha mẹ nhanh chóng giảm dần.Kết quả là, phương tiện giao tiếp với cha cô trở nên đặc biệt hơn.Trong cuốn sách tình yêu của gia đình độc thân của cô, có thể nhìn thấy nhiều nốt nhạc nhỏ giữa cô và cha cô trong nhiều năm qua.Thông qua cuốn tự truyện, độc giả được khuyến khích tìm thấy hạnh phúc trong các gia đình cha mẹ đơn thân.Số tiền huy động được từ 5000 bản sao phiên bản 1 giới hạn được bán đều được quyên góp cho Tổ chức Make A Wish.Choi cảm ơn bạn bè và người hâm mộ của cô vì doanh số bán tự truyện của cô.Những người bạn của cô như Jay Chou (người đã viết phần giới thiệu của cuốn sách của cô), bạn cùng nhóm Gillian Chung (người cũng đưa suy nghĩ của cô vào phần giới thiệu của Choi), Niki Chow, Mani và Wu Chun cũng là những người ủng hộ lớn, mua bản sao cho bạn bè và gia đình của họ.Đến bây giờ, một phiên bản mới của cuốn sách của cô đang được in và sẽ được phân phối ở nước ngoài.

Choi trở thành đại sứ cho tổ chức từ thiện nạn đói 30 giờ vào đầu tháng 2 năm 2009. Cô đã đến Nepal trong một tuần để giúp đỡ người dân địa phương bằng cách mang đồ tiếp tế đến các trường học.Đổi lại, cô được dạy kỹ thuật làm vườn địa phương.Vào tháng 4 năm 2009, Choi đã biểu diễn tại buổi hòa nhạc nạn đói trong 30 giờ, mở buổi hòa nhạc và biểu diễn một loạt các bài hát mới của Trung Quốc và tiếng Anh, cũng như các bài hát Twins cũ trong gần một giờ.

Discography[edit][edit]

NămTiêu đềGhi chú
2008 Thực hiện một điều ướcĐộc thân Quảng Đông
2009 Tôi cô đơnAlbum Quảng Đông
Mặt khác của tôiEP Quảng Đông
2010 Như một saAlbum Mandarin
Vẻ đẹp vẫn cònEP Quảng Đông
2011 Như một saAlbum Mandarin
2012 Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhất
2013 Cd Quảng Đông + Bộ sưu tập DVD của Quảng Đông & Quan thoạiNgày ngọt ngào nhất

Filmography[edit][edit]

Film[edit][edit]

NămTiêu đềGhi chúGhi chúThực hiện một điều ước
2000 Độc thân Quảng ĐôngTôi cô đơnAlbum Quảng Đông
2001 Mặt khác của tôiEP Quảng Đông
Như một saAlbum Mandarin
2002 Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhất
Cd Quảng Đông + Bộ sưu tập DVD của Quảng Đông & Quan thoạiDựng phim
CD tiếng Quảng Đông + phần thưởng tiếng Quảng Đông DVDNở hoa
2003 Vai tròTham khảo
Một giáo viên tốt 自從 他 了 了Sinh viên
CameoĐám tang tháng ba 常 我 心
Wong Kwan-YeeAnh hùng trong tình yêu 戀愛 之 不 了 了Charlene
2004 Chỉ một cái nhìnNam
Vợ tôi 18 tuổiYoyo Ma Suk-LingCharlene
Chỉ một cái nhìnNam
Vợ tôi 18 tuổiYoyo Ma Suk-Ling
Gió mùa hè của tình yêu 這個 有異性Choi KeiCharlene
Chỉ một cái nhìnNam
Vợ tôi 18 tuổiYoyo Ma Suk-Ling
Gió mùa hè của tình yêu 這個 有異性Choi KeiAlbum Quảng Đông
Mặt khác của tôiEP Quảng Đông
Như một saAlbum Mandarin
2005 Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhấtAlbum Quảng Đông
Mặt khác của tôiEP Quảng Đông
Như một saAlbum Mandarin
Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhấtCharlene
2006 Chỉ một cái nhìnNamVợ tôi 18 tuổi
Yoyo Ma Suk-LingGió mùa hè của tình yêu 這個 有異性
Choi KeiHiệu ứng sinh đôi
2007 HelenLời nguyền tử vong
Nancy TingDiva ... ah hey 下 站 站 天 天 后
Kam dai-heiThời gian tốt, giờ giường 戀上 你 床
TabbyXuất hiện đặc biệtCharlene
2008 Chỉ một cái nhìnNam
Vợ tôi 18 tuổiYoyo Ma Suk-Ling
2009 Gió mùa hè của tình yêu 這個 有異性Choi KeiAlbum Quảng Đông
Mặt khác của tôiEP Quảng Đông
2010 Như một saAlbum MandarinAlbum Quảng Đông
Mặt khác của tôiEP Quảng Đông
Như một saAlbum Mandarin
Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhất
2011 Cd Quảng Đông + Bộ sưu tập DVD của Quảng Đông & Quan thoạiDựng phim
CD tiếng Quảng Đông + phần thưởng tiếng Quảng Đông DVDNở hoa
2012 Vai tròDựng phim
2013 CD tiếng Quảng Đông + phần thưởng tiếng Quảng Đông DVD
Nở hoaVai trò
2014 Tham khảoMột giáo viên tốt 自從 他 了 了Album Quảng Đông
Mặt khác của tôi EP Quảng Đông
Như một sa
Album MandarinVẻ đẹp vẫn còn
2015 Ngày ngọt ngào nhấtNgày ngọt ngào nhất
2016 Cd Quảng Đông + Bộ sưu tập DVD của Quảng Đông & Quan thoại
2017 Dựng phimCD tiếng Quảng Đông + phần thưởng tiếng Quảng Đông DVD
Nở hoaVai trò
Tham khảoMột giáo viên tốt 自從 他 了 了
Sinh viên
2018 Cameo
2019 Đám tang tháng ba 常 我 心Wong Kwan-Yee
Anh hùng trong tình yêu 戀愛 之 不 了 了
2020 CharleneChỉ một cái nhìn
2022 NamVợ tôi 18 tuổiYoyo Ma Suk-Ling
Gió mùa hè của tình yêu 這個 有異性Choi Kei
Hiệu ứng sinh đôiHelenCD tiếng Quảng Đông + phần thưởng tiếng Quảng Đông DVD
Hiệu ứng sinh đôiHelen

Television[edit][edit]

NămTiêu đềGhi chúThực hiện một điều ướcGhi chúThực hiện một điều ước
2000 Độc thân Quảng ĐôngTôi cô đơnAlbum Quảng Đông
2001 Mặt khác của tôiEP Quảng ĐôngNhư một sa
2003 Album MandarinAlbum MandarinNhư một saAlbum Quảng Đông
Mặt khác của tôiEP Quảng ĐôngNhư một saAlbum Mandarin
Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhấtNhư một sa
2004 Album Mandarin Như một saAlbum Mandarin
Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhấtNhư một saAlbum Mandarin
Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhất Album Mandarin
2007 Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhấtNhư một sa
Album Mandarin
2010 Vẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhấtCd Quảng Đông + Bộ sưu tập DVD của Quảng Đông & Quan thoại
2011 Dựng phimCD tiếng Quảng Đông + phần thưởng tiếng Quảng Đông DVD
2012 Nở hoaVai trò
2018 Tham khảoMột giáo viên tốt 自從 他 了 了
2022 Sinh viênCameo Đám tang tháng ba 常 我 心
Hiệu ứng sinh đôiHelen Lời nguyền tử vong

Nancy Ting[edit]

NămTiêu đềThực hiện một điều ướcGhi chúThực hiện một điều ước
2014 Độc thân Quảng ĐôngTôi cô đơnAlbum Quảng Đông
2016 Mặt khác của tôiEP Quảng ĐôngNhư một sa
Album MandarinEP Quảng ĐôngNhư một sa
Album MandarinEP Quảng ĐôngNhư một sa
2017 Album MandarinVẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhất
Cd Quảng Đông + Bộ sưu tập DVD của Quảng Đông & Quan thoạiDựng phimNgày ngọt ngào nhất
Cd Quảng Đông + Bộ sưu tập DVD của Quảng Đông & Quan thoạiDựng phimNhư một sa
Album MandarinVẻ đẹp vẫn cònAlbum Mandarin
Vẻ đẹp vẫn cònDựng phimCD tiếng Quảng Đông + phần thưởng tiếng Quảng Đông DVD
2017 Nở hoaVai tròTham khảo
2018 Một giáo viên tốt 自從 他 了 了Sinh viênCameo
2019 Đám tang tháng ba 常 我 心Wong Kwan-YeeAnh hùng trong tình yêu 戀愛 之 不 了 了
Một giáo viên tốt 自從 他 了 了Sinh viênCameo
Album MandarinEP Quảng ĐôngNhư một sa
2020 Album MandarinNhư một sa
2021 Album MandarinVẻ đẹp vẫn cònNgày ngọt ngào nhất
Album MandarinEP Quảng Đông
Mùa hè hoàn hảo S2 Perfect Summer 2TV rồngSự xuất hiện trong tập 5-7 (cặp song sinh)
2022 Nhiệm vụ ngọt ngào 2022 Nhiệm vụ ngọt ngào 2022TV xoàiNgôi sao khách (cặp song sinh)
Xin chào Thứ Bảy Xin chào, Thứ BảyTV xoàiNgôi sao khách (cặp song sinh)
Xin chào Thứ Bảy Xin chào, Thứ BảyTV xoàiNgôi sao khách (cặp song sinh)
Xin chào Thứ Bảy Xin chào, Thứ BảyTV xoàiNgôi sao khách (cặp song sinh)
Xin chào Thứ Bảy Xin chào, Thứ BảyNgôi sao khách mời (Twins + Joey Yung)Các bạn, hãy lắng nghe 2
Sự xuất hiện trong tập 4Những người tạo ra sóng (Phần 3) phá vỡ sóng 3Ngôi sao khách (cặp song sinh)
Xin chào Thứ Bảy Xin chào, Thứ BảyTV xoàiNgôi sao khách (cặp song sinh)

Xin chào Thứ Bảy Xin chào, Thứ Bảy[edit]

2002

  • Ngôi sao khách mời (Twins + Joey Yung)

2004

  • Các bạn, hãy lắng nghe 2
  • Sự xuất hiện trong tập 4
  • Những người tạo ra sóng (Phần 3) phá vỡ sóng 3

2006

  • Ra mắt vị trí thứ 7
  • Những người yêu muộn đến muộn

2007

  • Migu
  • Sự xuất hiện trong tập 3-5
  • Thị trấn Baichuan Keyou
  • Douyin
  • Hứa cho bạn
  • EP1 được phát hành. Tắt không khí cho đến khi thông báo thêm
  • Giải thưởng và đề cử [Chỉnh sửa]

2008

  • Giải thưởng phim Hồng Kông lần thứ 21 - được đề cử giải thưởng Người biểu diễn mới xuất sắc nhất cho tang lễ tháng 3 [10]
  • Giải thưởng Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông lần thứ 10 - được đề cử giải thưởng Giải thưởng hay nhất
  • Giải thưởng phim Hồng Kông thứ 23 - được đề cử cho bài hát phim gốc hay nhất cho Diva, Ah Hey [11]
  • Giải thưởng truyền thông phim Trung Quốc thứ 4 - Được trao giải Nữ diễn viên nổi tiếng nhất Golden Awards (Hồng Kông và Đài Loan) cho Diva, Ah hey! / Hiệu ứng Twins
  • Yahoo! Giải thưởng tìm kiếm 2006 - Giải thưởng nữ diễn viên phim được trao giải thưởng địa phương
  • Metro Radio King of Entertainment News - Giải thưởng Nữ hoàng của Nữ diễn viên được trao tặng
  • Giải thưởng Phim kỷ niệm 10 năm của Hksar - đã trao giải thưởng thế hệ mới yêu thích của tôi [12]
  • Giải thưởng Phim kỷ niệm 10 năm của Hksar - Giải thưởng
  • Hong Kong Filmart 2007 - Được trao giải thưởng Nữ diễn viên địa phương nổi tiếng nhất (Top 5)
  • Liên hoan phim tuyệt vời quốc tế Puchon lần thứ 11 (PIFAN) - Giải thưởng
  • Giải thưởng Golden Bauhinia lần thứ 12 - Giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất
  • Giải thưởng Golden Bauhinia thứ 12 - Giải thưởng
  • Giải thưởng MTV Super thứ 5 - Giải thưởng hành động đặc trưng nhất (Hồng Kông và Đài Loan)
  • Giải thưởng Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông lần thứ 14 - được đề cử giải thưởng giải thưởng hay nhất cho các diễn viên đơn giản [14]
  • Giải thưởng Phim Hồng Kông thứ 27 - Được đề cử cho hành động hay nhất cho các diễn viên đơn giản
  • Lễ Tencent 2008 Net Star - được trao giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Đài Loan và Hồng Kông cho những người yêu thích bướm [15]
  • Metro Radio Hit Mandarin Awards - Được trao giải bài hát Little Sister
  • Metro Radio Hit Mandarin Awards - Giải thưởng
  • Metro Radio Hit Mandarin Awards - Thần tượng được trao giải
  • Có Idol 2008 - 4 giải thưởng nhận được - bao gồm cả nữ Yes Idol năm 2008.
  • Sự kiện âm nhạc Vanguard 2008 "Danh sách tiên phong âm nhạc" - Giải thưởng nữ ca sĩ nổi tiếng nhất
  • Giải thưởng âm nhạc TVB8 - Được trao giải mười bài hát vàng hay còn gọi là giải thưởng bài hát vàng

2009

  • Kích thước "Yahoo! Giải thưởng tìm kiếm phổ biến 2008" - Giải thưởng
  • Kích thước "Yahoo! Giải thưởng tìm kiếm phổ biến 2008" - JJ và Charlene Choi Awards nổi tiếng Mandarin Song -Little Limpler
  • Giải thưởng âm nhạc tvb quý 3 - Được trao tặng bài hát nổi tiếng nhất của Trung Quốc
  • TVB Weekly, "Giải thưởng thương hiệu nổi tiếng nhất 2008" - Được trao giải Queen of Advertisement 2008
  • Metro Radio đạt được các bài hát âm nhạc: Làm một điều ước
  • Metro Radio đạt giải Karaoke Songs - LIMPLES
  • Metro Radio đạt giải thưởng Bài hát: Lớp lúm đồng tiền nhỏ
  • Metro Radio đạt được hầu hết các ca sĩ được bầu chọn là giải thưởng lớn: Charlene Choi
  • Baidu 2008 Mobileched Đài Loan và nữ diễn viên Hồng Kông
  • Baidu 2008 Mobileched Duet -Little lúm đồng tiền
  • Giải thưởng âm nhạc Sprite - Được trao giải nữ nghệ sĩ nổi tiếng nhất (Hồng Kông)
  • Giải thưởng âm nhạc Sprite - được trao giải song ca hay nhất (lúm đồng tiền nhỏ)
  • Giải thưởng âm nhạc Sprite - Giải thưởng truyền thông được trao tặng (Hồng Kông)
  • Giải thưởng Music King - Giải thưởng truyền thông lớn
  • Yahoo! Giải thưởng thương hiệu thương hiệu cho quảng cáo Coca-Cola với William Chan
  • Giải thưởng âm nhạc Sina - 20 bài hát Listend hàng đầu nhất cho Make A Wish
  • Metro Music Mandarin Awards -top 21 Bài hát cho LIMPLES nhỏ
  • Metro Music Mandarin Awards - Bài hát karaoke hay nhất cho Little Lúm
  • Yahoo!Giải thưởng Asia Buzz - Giải thưởng Top 10 bài hát được tìm kiếm nhiều nhất cho hai
  • Giải thưởng JSG Vòng 3 - 14 bài hát hàng đầu cho Survivor
  • Giải thưởng âm nhạc kỹ thuật số Trung Quốc năm 2009 - Bản song ca được tải xuống nhiều nhất cho Little Dimple (5,465,381 lần)
  • Baidu thứ 4 được tìm kiếm nhiều nhất Đài Loan và nữ ca sĩ Hồng Kông (74.539.012 lượt truy cập)
  • Moov #9 Bài hát được tải xuống nhiều nhất năm 2009 cho hai mà không có một (108.049 lượt tải xuống)
  • Khảo sát đài phát thanh Metro của hơn 10.000 học sinh trung học Hồng Kông: Nữ ca sĩ yêu thích của học sinh (vị trí thứ 2)
  • Khảo sát đài phát thanh Metro của hơn 10.000 học sinh trung học Hồng Kông: Thần tượng với hình ảnh lành mạnh nhất (vị trí thứ nhất trong số các ca sĩ nam và nữ)
  • Metro Radio Hits Awards - Giải thưởng bài hát 21 hit hàng đầu cho hai người mà không có một
  • Metro Radio Hits Awards - Giải thưởng nữ ca sĩ xuất sắc nhất hàng đầu
  • Metro Radio Hits Awards - 4 bài hát cover top cho tôi xin lỗi
  • Metro Radio Hits Awards - 3 Giải thưởng Ca sĩ được bình chọn nhiều nhất
  • Metro Radio Hits Awards - Album Ultimate 4 kênh biểu diễn xuất sắc giải thưởng lớn
  • Giải thưởng âm nhạc TVB8 - 10 bài hát tiếng Quan thoại hàng đầu cho hai
  • Trong số các nữ diễn viên điện ảnh ở Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc đại lục: doanh thu cao nhất #4 năm 2009
  • Trong số các nữ diễn viên điện ảnh ở Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc đại lục: Mức lương cao nhất cho mỗi bộ phim
  • Được chọn trong số các chuyên gia ở tất cả Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc đại lục là số 2 trong "Mười phụ nữ đẹp nhất năm 2009"

2010

  • RTHK Top 10 Giải thưởng Bài hát Vàng Trung Quốc - Hồng Kông & Đài Loan Top 10 người chiến thắng ca sĩ xuất sắc
  • RTHK Top 10 Giải thưởng Bài hát Vàng Trung Quốc - Giải thưởng quốc gia cho 5 nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất
  • 10 giải thưởng hàng đầu RTHK - Top 5 nữ nghệ sĩ và nữ nghệ sĩ/máy bay radio
  • Giải thưởng âm nhạc phát thanh U-kênh-Nghệ sĩ thập kỷ của thiên niên kỷ với hình ảnh lành mạnh nhất
  • Giải thưởng âm nhạc Hit của Canada - 10 bài hát Top 10 quý nhất của Bắc Mỹ cho hai người mà không có một
  • Giải thưởng Top 10 của JSG - Giải thưởng 10 bài hát top Golden Melody cho hai người mà không có một
  • Giải thưởng Top 10 của JSG - Giải thưởng biểu diễn xuất sắc (Silver)
  • Giải thưởng âm nhạc Sina - 20 bài hát được nghe nhất cho hai
  • Giải thưởng âm nhạc Sina - Giải thưởng biểu diễn xuất sắc
  • Giải thưởng âm nhạc Sina - Giải thưởng Nghệ sĩ được tìm kiếm (HITS) nhiều nhất
  • Yahoo!Thăm dò ý kiến - được bình chọn là người yêu thích lý tưởng nhất của cư dân mạng
  • Bravely March Forward Show - giành được danh hiệu Nữ diễn viên xuất sắc nhất
  • Giải thưởng âm nhạc bán hàng hàng đầu của IFPI HK - 10 ca sĩ bán chạy nhất Hồng Kông năm 2009
  • Giải thưởng âm nhạc hàng đầu của IFPI HK - Top 10 Album bán chạy nhất của Quảng Đông năm 2009 cho hai người không có một album
  • Giải thưởng âm nhạc hàng đầu của IFPI HK
  • Năm 2010 Danh sách Người nổi tiếng của Forbes Trung Quốc - xếp thứ 52 trong số tất cả những người nổi tiếng từ Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan kết hợp (dựa trên thu nhập và tần suất tiếp xúc với phương tiện truyền thông năm 2009)
  • Giải thưởng JSG Vòng 1 - Giải thưởng giai điệu vàng hàng đầu để có thể buông tay
  • Yahoo!Giải thưởng thương hiệu - Giải thưởng người phát ngôn lý tưởng và mong muốn nhất
  • QQ Music (Nền tảng âm nhạc Internet lớn nhất Trung Quốc) - Âm nhạc tổng thể số 1, Âm nhạc Mandarin số 1, Âm nhạc mới số 1 cho Người bạn tâm tình
  • QQ Music (Nền tảng âm nhạc Internet lớn nhất Trung Quốc) - Album xếp hạng số 2 cho AS SA
  • Giải thưởng Music King - được đề cử là nữ ca sĩ nổi tiếng nhất Hồng Kông
  • Giải thưởng âm nhạc thành công của Metro Radio Mandarin - Hit Nữ ca sĩ
  • Giải thưởng âm nhạc thành công của Metro Radio - Giải thưởng Thần tượng toàn cầu nổi tiếng nhất
  • Metro Radio Mandarin Hit Awards
  • Giải thưởng King âm nhạc thứ 7 - Album của năm cho hai người mà không có một
  • Giải thưởng King âm nhạc thứ 7 - 10 bài hát tiếng Quan thoại hàng đầu của Golden Melody cho người bạn tâm tình
  • Giải thưởng truyền hình đại bàng vàng Trung Quốc thứ 25 - Đề cử cho bộ phim truyền hình nổi tiếng nhất của Hồng Kông & Đài Loan để kêu gọi tình yêu
  • Giải thưởng âm nhạc Golden Melody - Bài hát KTV hay nhất của năm cho LIMPLES
  • Giải thưởng âm nhạc giai điệu vàng - 10 bài hát tiếng Quan thoại hàng đầu cho Bão lớn

2013

  • Liên hoan phim quốc tế Macau thứ 5 - Giải thưởng Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Midas Touch

2014

  • Liên hoan phim quốc tế Macau thứ 6 - Giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Sara

2015

  • Giải thưởng truyền thông phim Trung Quốc thứ 15 - Giải thưởng khán giả nữ diễn viên nổi tiếng nhất cho Sara
  • Giải thưởng truyền thông phim Trung Quốc thứ 15 - Giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Sara
  • Giải thưởng Phim Hồng Kông lần thứ 34 - Được đề cử cho Giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Sara
  • Giải thưởng Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông thứ 22 - được đề cử cho giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Sara
  • Liên hoan phim châu Á Osaka lần thứ 10 - Đặc biệt đề cập đến Sara

2019

  • Giải thưởng phim Hồng Kông lần thứ 38 - được đề cử cho Giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Lady không đúng [16]
  • Liên hoan phim quốc tế Macau lần thứ 11 - Giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Lady không đúng
  • Lễ hội truyền hình quốc tế Macau - Nữ diễn viên biểu diễn tốt nhất cho Đơn vị Chiến thuật Cảnh sát PTU

2020

  • Giải thưởng Phim Hồng Kông lần thứ 39 - Được đề cử cho Giải thưởng Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Visit Fatal Visit
  • Liên hoan phim quốc tế Macau - được đề cử giải thưởng Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Visit Fatal Visit

2021

  • Liên hoan phim quốc tế Macau -Nomated cho các giải thưởng tốt nhất

Notes[edit][edit]

  1. ^Gia đình Choi chuyển đến Hồng Kông Anh vào những năm 1980. Sau khi bàn giao Hồng Kông cho Trung Quốc vào năm 1997, tất cả người dân Hồng Kông gốc Trung Quốc, bất kể họ có quốc tịch nước ngoài hay không, tự động trở thành những người dân Hồng Kông quốc tịch Trung Quốc Sau đó, sau đó, Choi family moved to the British Hong Kong in the 1980s. After the handover of Hong Kong to China in 1997, all Hong Kong people of Chinese descent, regardless of whether they have foreign nationality or not, automatically became Hong Kong residents of Chinese nationality.
  2. ^Cư dân thường trú của Hồng Kông, bất kể có quốc tịch Trung Quốc hay không, có quyền bỏ phiếu hoặc đăng ký làm cử tri. Hong Kong permanent residents, regardless of whether they have Chinese nationality or not, have the right to vote or register as voters.

References[edit][edit]

  1. ^ AB "Zheng Zhongji và Cai Zhuoyan: Cuộc chia tay ban đầu đã ly dị". Giáo dục Sina (bằng tiếng Trung Quốc). 29 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2020.a b "郑中基和蔡卓妍:分手原来是离婚". Sina Education (in Chinese). 29 March 2010. Retrieved 8 September 2020.
  2. ^ Abeegmusic. "Eegmusic lưu trữ 2012-10-26 tại Wayback Machine." Thông tin khác. Truy cập vào ngày 9 tháng 3 năm 2008.a b EEGmusic. "EEGmusic Archived 2012-10-26 at the Wayback Machine." Other information. Retrieved on 9 March 2008.
  3. ^"Cholene Choi đã bay trở lại Hồng Kông cho sinh nhật". My.Enturement.yahoo.com. Lấy lại ngày 25 tháng 11 năm 2022. "Charlene Choi flew back to Hong Kong for birthday". my.entertainment.yahoo.com. Retrieved 25 November 2022.
  4. ^Charlene Choi tại IMDB IMDB. Tiểu sử cho Charlene Choi Charlene Choi at IMDb IMDb. Biography for Charlene Choi
  5. ^"" Apple "Độc quyền Chase thực sự không thể giả Ah Sa, Zhengzhongji Los Angeles Sách kết hôn tiếp xúc 7 tháng 5 năm 2021. "《蘋果》獨家越洋追擊 真的假不了 阿Sa、鄭中基洛杉磯婚書曝光 | 蘋果日報". Apple Daily 蘋果日報 (in Chinese (Hong Kong)). Archived from the original on 7 May 2021. Retrieved 7 May 2021.
  6. ^"Ah sa, Chen Weites đã trở lại Hồng Kông" Tôi rất hạnh phúc "| Apple Daily". Apple Daily Daily Daily (bằng tiếng Trung (Hồng Kông)). . "阿Sa、陳偉霆攬住返港 「我好幸福」 | 蘋果日報". Apple Daily 蘋果日報 (in Chinese (Hong Kong)). Archived from the original on 4 September 2020. Retrieved 7 May 2021.
  7. ^"Cai Zhuoyan và Chen Weites tuyên bố rằng tình yêu năm năm đã chơi xong". On.cc East Network (bằng tiếng Trung (Hồng Kông)). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2021. "蔡卓妍陳偉霆宣布五年情玩完". on.cc東網 (in Chinese (Hong Kong)). Retrieved 7 May 2021.
  8. ^"[Cặp song sinh tất cả đã ổn định] Tình yêu của Tsai Zhuoyan trong bốn năm với Zheng Zhongji trở lại" Ten tỷ Paradise Prince "| Apple Daily". Apple Daily Daily (bằng tiếng Trung (Hồng Kông)). Lấy ngày 7 tháng 5 năm 2021. "【Twins都有着落】同鄭中基秘婚四年 蔡卓妍情歸「百億麻雀館太子爺」 | 蘋果日報". Apple Daily 蘋果日報 (in Chinese (Hong Kong)). Archived from the original on 7 May 2021. Retrieved 7 May 2021.
  9. ^"Và phương pháp diễn giải khẩn cấp của Zhuo Yunzhi một lần nữa của vụ thu hoạch trứng tuyết". "與卓韻芝臨急改演繹方法 阿Sa再度雪卵收穫豐". 明周娛樂. 15 August 2019. Archived from the original on 7 May 2021. Retrieved 7 May 2021.
  10. ^Hkfaa. "Hkfaa được lưu trữ vào ngày 4 tháng 3 năm 2016 tại Wayback Machine. HKFAA. "HKFAA Archived 4 March 2016 at the Wayback Machine." 21st Hong Kong Film Awards. Retrieved on 4 November 2015.
  11. ^Hkfaa. "Hkfaa được lưu trữ vào ngày 14 tháng 4 năm 2016 tại Wayback Machine. HKFAA. "HKFAA Archived 14 April 2016 at the Wayback Machine." 23rd Hong Kong Film Awards. Retrieved on 4 November 2015.
  12. ^ Truyền hình Abradio Hk. "Rthk lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2008, tại Wayback Machine." Hồng Kông tháng năm 2007. Truy cập vào ngày 9 tháng 3 năm 2007.a b Radio Television HK. "RTHK Archived February 17, 2008, at the Wayback Machine." Hong Kong film month 2007. Retrieved on 9 March 2007.
  13. ^Puchon. "Puchon lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2007, tại Wayback Machine." Giải thưởng. Truy cập vào ngày 9 tháng 3 năm 2008. Puchon. "Puchon Archived September 1, 2007, at the Wayback Machine." Awards. Retrieved on 9 March 2008.
  14. ^Filmcritics.org. "Filmcrotics.org được lưu trữ vào ngày 29 tháng 1 năm 2008, tại Wayback Machine. Filmcritics.org. "Filmcritics.org Archived January 29, 2008, at the Wayback Machine." Award list. Retrieved on 9 March 2008.
  15. ^"Người nhận nữ diễn viên xuất sắc nhất". 2008. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2015. "Best Actress Recipients". 2008. Archived from the original on 4 March 2016. Retrieved 4 November 2015.
  16. ^Hkfaa. "[1] Được lưu trữ vào ngày 30 tháng 8 năm 2016 tại Wayback Machine." Giải thưởng phim thứ 21 của Hồng Kông. Truy cập vào ngày 20 tháng 4 năm 2019. HKFAA. "[1] Archived 30 August 2016 at the Wayback Machine." 21st Hong Kong Film Awards. Retrieved on 20 April 2019.

Liên kết bên ngoài [Chỉnh sửa][edit]

  • Charlene Choi tại IMDB
  • Charlene Choi tại Chinesemov.com